Tháng Sáu trời mưa không dứt...
Thời tiết mùa hạ xứ đồng bắp thật quái gở. Hôm nắng hôm mưa. Cứ như sáng nay thời lại trở lạnh như vào thu. Mưa trắng bầu trời. Mưa trút hết thịnh nộ trong tiếng sấm rền. Xe đi chậm qua những cánh đồng sủng nước những con đường quanh co vắng teo. Đi ngang phố nhỏ chợt nhớ hè những năm trước còn có hai ông bà già gầy gò lụm cụm đi bên nhau trong những buổi sớm mai. Hình ảnh đó cứ làm mình buồn man mác. Rồi như chiếc lá bay, năm sau chỉ thấy ông đi một mình. Và năm nay, chỉ còn trong ký ức bóng dáng của hai kẻ đơn côi đi bước cuối đường. Sinh lão bệnh tử là thế. Sao đã biết mà lòng vẫn ngậm ngùi.
letters from a corn field... ghi chép lẩm cẩm của một kẻ đang sống giửa bạt ngàn đồng bắp xứ Cờ Hoa...
Thứ Hai, 27 tháng 6, 2011
Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2011
đấu tranh giai cấp - repost
Một trong những luận điểm tối quan trọng của học thuyết Mác-Lê (Marxism-Leninism) là đấu tranh giai cấp. Học thuyết Mác-Lê cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của những cuộc đấu tranh về giai cấp. Như vậy câu hỏi đầu tiên được đặt ra là vì sao lại phải có đấu tranh giai cấp.
Trả lời cho câu hỏi này, ta phải xét đến căn bản của Marxism dựa trên lý luận không có siêu hình hay là không có Thượng đế mà chỉ có vật chất. Xã hội loài người tiến hóa theo khả năng sàn xuất ra vật chất. Một nền kinh tế xã hội phài có những thành phần như lực lượng sản xuất và tư liệu sản xuất.
Lực lượng sản xuất hay là người trực tiếp làm ra vật chất như công nhân hay nông dân. Người trí thức bị miệt thị là bọn tiểu tư sản. Dù không có giới trí thức thì không có máy cày hay điện năng cho sàn xuất thì họ vẫn bị liệt vào thành phần “phi lao động” hay bị mao trạch đông chửi: “trí thức không bằng cục phân”. Tư liệu sản xuất bao gồm nguồn nguyên vật liệu, máy móc, và nguồn vốn tư bản.
Một thành phần chánh trong xã hội loài người mà marx cố tình lờ đi trong công thức “lực lượng sản xuất + tư liệu sản xuất = vật chất” đó là người chủ tư bản và giới trí thức. marx làm như vậy để đẩy thành phần thứ ba này vào vị trí đối lập để ông ta có thể chứng minh cho luận điểm đấu tranh giai cấp.
Như vậy người chủ hay nhà tư bản hay theo xảo ngữ của csvn là nhà doanh nghiệp bị đặt ngay vào vị trí kẻ thù của giai cấp lao động! Đấu tranh giửa hai lực lượng “đối kháng” này là tất yếu. Từ đây marx cho rằng cách duy nhất đễ xây dựng thiên đường cộng sản với “không có cảnh người bóc lột người” hay “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” là tiêu diệt hoàn toàn thành phần tư bản của cái gọi là đấu tranh giai cấp.
Xuyên suốt quá trình xây dựng thiên đường cộng sản ở Nga, Tàu, Việt Nam, v.v…, hàng chục triệu sinh mạng vô tội đã bị tiêu diệt bằng đủ loại phương tiện. Ở Nga hay Tàu, nạn nhân sống sót chẳng còn mấy người. Gia sản cũa họ bị tịch thâu. Vợ con cũng nằm trong danh sách phải tiêu diệt. Có thể nói cuộc đấu tranh giai cấp hoàn tất mỹ mãn. Thế nhưng sao thiên đường kia còn xa vời vợi? Thực ra người cộng sản cũng đã tạo dựng được thành công cái thiên đường hạ giới đó đấy chứ! Nhưng hiềm một nỗi thiên đường đó chỉ dành riêng cho một số rất ít kẻ chóp bu như stalin hay mao hay hồ chí minh. Những gã sát nhân như bọn này ăn sơn hào hải vị, chơi bời rặt những gái tơ non. Yến tiệc tràn cung mây. Bọn em út cũng theo chân “lảnh tụ vĩ đại” tranh chiếm đất đai, nhà cửa, đục khoét của nước máu dân cho phỉ chí loài sán lãi.
Sau khi mao chết, đặng tiểu bình tuyên bố tứ hiện đại hóa chuyển hướng quay về đường lối phát triễn tư bản nhưng vẫn duy trì một cách cứng rắn bàn tay sắt máu của chuyên chính vô sản của đảng cộng sản. Việt cộng mau mắn theo chân chệt cộng bày ra đủ trò bỉ ổi như kinh tế thị trường theo định hướng xhcn. Tại sao chệt cộng và việt cộng làm như vậy? Câu trả lời thật đơn giản và bình dân. Cộng sản là người chứ không phài là thánh. Hễ còn mang xác phàm thì còn muốn ăn ngon mặc đẹp, chơi gái tơ và làm… ông nội dân đen. Thế là chúng đua nhau chiếm xí nghiệp, đất đai, chia chác của công theo hình thức “cổ phần hoá” v.v... Nếu nói theo marx, người cộng sản đã chiếm hữu tư liệu sản xuất làm của riêng. Và nếu marx đúng, người cộng sản đả trở thành tư bản nhưng là tư bản đỏ. Một thứ siêu quái thai vừa làm chủ tư bản, vừa làm chủ nhân dân - gọi là chủ nô cũng rất đúng, vừa nắm công an bộ đội. Thứ quái thai “tư bản đỏ” này hoàn toàn mang đủ tính cách đặc trưng của giai cấp phong kiến thời Trung Cổ. Nếu nói theo duy vật biện chứng lịch sử của marx một lần nửa thì “tư bản đỏ” quả là một bước LÙI vĩ đại của người cộng sản đi từ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuống thời phong kiến Trung Cổ.
Như vậy, đấu tranh giai cấp một lần nửa lại được tái lập trên các nước cộng sản. Lần này giai cấp lao động bần cùng nghèo khó bao năm vì phài dựng xây thiên đường cho “báo hồ” bác duẫn” phải càng thêm khốn khó dưới ách nạn tư bản đỏ.
Lực lượng sản xuất hay là người trực tiếp làm ra vật chất như công nhân hay nông dân. Người trí thức bị miệt thị là bọn tiểu tư sản. Dù không có giới trí thức thì không có máy cày hay điện năng cho sàn xuất thì họ vẫn bị liệt vào thành phần “phi lao động” hay bị mao trạch đông chửi: “trí thức không bằng cục phân”. Tư liệu sản xuất bao gồm nguồn nguyên vật liệu, máy móc, và nguồn vốn tư bản.
Một thành phần chánh trong xã hội loài người mà marx cố tình lờ đi trong công thức “lực lượng sản xuất + tư liệu sản xuất = vật chất” đó là người chủ tư bản và giới trí thức. marx làm như vậy để đẩy thành phần thứ ba này vào vị trí đối lập để ông ta có thể chứng minh cho luận điểm đấu tranh giai cấp.
Như vậy người chủ hay nhà tư bản hay theo xảo ngữ của csvn là nhà doanh nghiệp bị đặt ngay vào vị trí kẻ thù của giai cấp lao động! Đấu tranh giửa hai lực lượng “đối kháng” này là tất yếu. Từ đây marx cho rằng cách duy nhất đễ xây dựng thiên đường cộng sản với “không có cảnh người bóc lột người” hay “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” là tiêu diệt hoàn toàn thành phần tư bản của cái gọi là đấu tranh giai cấp.
Xuyên suốt quá trình xây dựng thiên đường cộng sản ở Nga, Tàu, Việt Nam, v.v…, hàng chục triệu sinh mạng vô tội đã bị tiêu diệt bằng đủ loại phương tiện. Ở Nga hay Tàu, nạn nhân sống sót chẳng còn mấy người. Gia sản cũa họ bị tịch thâu. Vợ con cũng nằm trong danh sách phải tiêu diệt. Có thể nói cuộc đấu tranh giai cấp hoàn tất mỹ mãn. Thế nhưng sao thiên đường kia còn xa vời vợi? Thực ra người cộng sản cũng đã tạo dựng được thành công cái thiên đường hạ giới đó đấy chứ! Nhưng hiềm một nỗi thiên đường đó chỉ dành riêng cho một số rất ít kẻ chóp bu như stalin hay mao hay hồ chí minh. Những gã sát nhân như bọn này ăn sơn hào hải vị, chơi bời rặt những gái tơ non. Yến tiệc tràn cung mây. Bọn em út cũng theo chân “lảnh tụ vĩ đại” tranh chiếm đất đai, nhà cửa, đục khoét của nước máu dân cho phỉ chí loài sán lãi.
Sau khi mao chết, đặng tiểu bình tuyên bố tứ hiện đại hóa chuyển hướng quay về đường lối phát triễn tư bản nhưng vẫn duy trì một cách cứng rắn bàn tay sắt máu của chuyên chính vô sản của đảng cộng sản. Việt cộng mau mắn theo chân chệt cộng bày ra đủ trò bỉ ổi như kinh tế thị trường theo định hướng xhcn. Tại sao chệt cộng và việt cộng làm như vậy? Câu trả lời thật đơn giản và bình dân. Cộng sản là người chứ không phài là thánh. Hễ còn mang xác phàm thì còn muốn ăn ngon mặc đẹp, chơi gái tơ và làm… ông nội dân đen. Thế là chúng đua nhau chiếm xí nghiệp, đất đai, chia chác của công theo hình thức “cổ phần hoá” v.v... Nếu nói theo marx, người cộng sản đã chiếm hữu tư liệu sản xuất làm của riêng. Và nếu marx đúng, người cộng sản đả trở thành tư bản nhưng là tư bản đỏ. Một thứ siêu quái thai vừa làm chủ tư bản, vừa làm chủ nhân dân - gọi là chủ nô cũng rất đúng, vừa nắm công an bộ đội. Thứ quái thai “tư bản đỏ” này hoàn toàn mang đủ tính cách đặc trưng của giai cấp phong kiến thời Trung Cổ. Nếu nói theo duy vật biện chứng lịch sử của marx một lần nửa thì “tư bản đỏ” quả là một bước LÙI vĩ đại của người cộng sản đi từ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuống thời phong kiến Trung Cổ.
Như vậy, đấu tranh giai cấp một lần nửa lại được tái lập trên các nước cộng sản. Lần này giai cấp lao động bần cùng nghèo khó bao năm vì phài dựng xây thiên đường cho “báo hồ” bác duẫn” phải càng thêm khốn khó dưới ách nạn tư bản đỏ.
Cộng sản đã trở thành lực lượng cực kỳ phản động, phản bội lý tưởng chính chúng đề cao, phản bội lại giai cấp công nông là nhửng người bị buộc phải hy sinh tất cả cho người cộng sản thực thi những âm mưu bất chánh, và phản bội luôn cả marx!!! Đấu tranh giai cấp lần này đích thực là của người cùng khỗ chống lại bọn sán cộng gian hùng!!!
Thứ Ba, 21 tháng 6, 2011
Nhớ bố
đêm qua nằm nhớ bố. bố mất lâu rồi sao vẫn nhớ như in. nhớ ngày bố đi tù về. ốm nhom râu ria lởm chởm. bố về trong một ngày Saigon chìm trong cơn mưa bảo. ngày chúng bắt bố đi mưa cũng ngập trời như thế nhỉ. lần ấy bố cũng khoác poncho như mỗi lần đi trận. đi lần ấy cũng không biết có về không? mà về lẩn này không biết có lại bị bắt đi lần nửa không?
bố cả đời ghét súng ống chiến tranh. bố chỉ muốn yên lành sống đời một ông giáo làng bên lủ trò nhỏ nhỏ xinh xinh. thế mà bố vẩn đi lính vẩn làm tròn bổn phận một lính quèn. chịu đựng không trốn tránh không than vãn. có lần tướng tá mắng lính lác ối đồ chết nhát bố và lính cũng im. ngày cuối, các tướng lớn tá to gầm thét "đánh tới giọt máu cuối cùng" và thể sẽ cùng để lại nắm xương tàn bên chiến hữu. vèo một cái, từ tông tông trở xuống tới tướng tá những ông tai to mặt hùm gắn ria kẽm oai như tài tử Hollywood Clark Gable vọt mẹ nó ra hạm đội 7. bố lại ôm súng ở lại. hỏi bố, bố bảo giấy rách phải giử lề con ạ. bố chạy thì nhục lắm.
ngày bố đi Mỹ. hành trang cũng giống ngày ra tù. lần này ra tù thật. đám chủ của cái chuồng bò vĩ đại mang tên "cộng hòa xhcn" kia đã bán được bố và bạn bè trong cuộc đổi chác đỏ đen. lần này đi nắng rất ấm trong một ngày thu hiếm hoi của Saigon. bố cày lưng bán xới những giọt mồ hôi để gầy dựng lại trên đồng đất xứ người. gặp lại ông tá cũ nay đã oai phong nhà to cửa lớn. ông tá lại mắng ối đồ ngu. bố vẩn im và bỏ đi nhưng chú Hai đã túm cổ ông tá và bảo anh tao có thể ngu nhưng không hề HÈN như mày - đồ cặn bã. ông tá cựu đứng run lẩy bẩy vì sợ ăn đòn chứ củng không hiểu được vì sao mình lại HÈN?
thế rồi bố lại đi. lần này đi không về nửa. bố đi về đâu không biết nhưng chắc chắn bố sẽ không thẹn khi gặp lại bạn bè lính cũ. những người đã lừng lững đi vào hư không trên chiến trận hay trong ngục tối. sinh tử nào ai thoát nên con chỉ nhớ bố thật nhiều mà không buồn đâu, bố ạ...
bố cả đời ghét súng ống chiến tranh. bố chỉ muốn yên lành sống đời một ông giáo làng bên lủ trò nhỏ nhỏ xinh xinh. thế mà bố vẩn đi lính vẩn làm tròn bổn phận một lính quèn. chịu đựng không trốn tránh không than vãn. có lần tướng tá mắng lính lác ối đồ chết nhát bố và lính cũng im. ngày cuối, các tướng lớn tá to gầm thét "đánh tới giọt máu cuối cùng" và thể sẽ cùng để lại nắm xương tàn bên chiến hữu. vèo một cái, từ tông tông trở xuống tới tướng tá những ông tai to mặt hùm gắn ria kẽm oai như tài tử Hollywood Clark Gable vọt mẹ nó ra hạm đội 7. bố lại ôm súng ở lại. hỏi bố, bố bảo giấy rách phải giử lề con ạ. bố chạy thì nhục lắm.
ngày bố đi Mỹ. hành trang cũng giống ngày ra tù. lần này ra tù thật. đám chủ của cái chuồng bò vĩ đại mang tên "cộng hòa xhcn" kia đã bán được bố và bạn bè trong cuộc đổi chác đỏ đen. lần này đi nắng rất ấm trong một ngày thu hiếm hoi của Saigon. bố cày lưng bán xới những giọt mồ hôi để gầy dựng lại trên đồng đất xứ người. gặp lại ông tá cũ nay đã oai phong nhà to cửa lớn. ông tá lại mắng ối đồ ngu. bố vẩn im và bỏ đi nhưng chú Hai đã túm cổ ông tá và bảo anh tao có thể ngu nhưng không hề HÈN như mày - đồ cặn bã. ông tá cựu đứng run lẩy bẩy vì sợ ăn đòn chứ củng không hiểu được vì sao mình lại HÈN?
thế rồi bố lại đi. lần này đi không về nửa. bố đi về đâu không biết nhưng chắc chắn bố sẽ không thẹn khi gặp lại bạn bè lính cũ. những người đã lừng lững đi vào hư không trên chiến trận hay trong ngục tối. sinh tử nào ai thoát nên con chỉ nhớ bố thật nhiều mà không buồn đâu, bố ạ...
Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2011
VNCH, biết mới tiếc…- Đào Nương
VNCH, biết mới tiếc…- Đào Nương, báo Saigon nhỏ
Một bài của Đào Nương viết hay và thành thực, bình tĩnh nữa, vì Bà khá ít những dòng mắng chửi mà trên thực tế lẽ ra phải có khi viết những đề tài này.Bà đã nói hộ tiếng lòng của bao người Việt, tôi tin là không chỉ “quốc gia” mà còn là “cộng sản” nữa, về thực trạng Việt Nam, cho dù nay, chiến tranh đã tàn lụi 36 năm, mà tính khốc liệt của nó vẫn còn nguyên, bởi sự thật hiển nhiên thì tự thơm tự sáng. Bà đã ghi lại vắn tắt những giá trị nhân bản, trung thực không ai chối cãi được, mà trong hai mươi năm không cộng sản ngắn ngủi, miền Nam Việt Nam đã làm nên được, hương thơm ấy còn lan tỏa mãi cho tới ngày nay sau 36 năm cuộc chiến tàn, (mà oan khốc cho giang sơn và đồng bào là những kẻ chiến thắng lộ quá rõ bản mặt dối trá độc ác phi nhân đê hèn, đã hành xử như -hoặc tệ hơn- những kẻ ngoại bang thống trị chiếm đóng).
Ẩn sau bài viết, là những lời cáo trạng đanh thép cho chế độ Việt cộng: một lũ người lừa nòi lộn giống. Chỉ có thực tại đó mới giải thích nổi vì sao chính người Việt Nam (việt cộng) lại đày ải xâm hại hành hạ đồng bào mình, xứ sở mình!!???
Một bài viết chuyển tải tâm trạng của một người Việt yêu nước chân chính mà chả cần phe phái, ý thức hệ hay lý thuyết gì ráo!
Xin tán thán công đức của tác giả Đào Nương! và mời bạn đọc...
Nguồn: Tuần Báo Saigon Nhỏ số ra ngày 11 tháng 3, 2011
Bài dưới đây được copy lại từ trang mạng Đàn Chim Việt
VNCH, biết mới tiếc…
LTS: Sau khi Đàn Chim Việt đăng tải bài viết của tác giả Tiên Sa mang tựa đề “Hãy để cho Việt Nam Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên” – tạo ra những tranh luận sôi nổi trên không gian mạng – một độc giả đã gửi cho ĐCV bài viết của ký giả Đào Nương thuộc tuần báo Saigon Nhỏ phản biện lại tác giả Tiên Sa. Khác biệt tư duy là điều tự nhiên và cần thiết của xã hội con người, nhưng cùng tìm giải pháp đồng thuận có thể còn quan trọng hơn nữa, thay vì đưa đến chia rẽ vì sự khác biệt. Trên tinh thần đó, chúng tôi hân hạnh giới thiệu bài viết của ký giả Đào Nương và mời bạn đọc theo dõi.
Sau 36 năm Miền Nam rơi vào tay cộng sản, ngày nay không chỉ những người sinh sống tại Miền Nam Việt Nam trước đây, không công nhận lá cờ đỏ sao vàng của đảng cộng sản Việt Nam mà ngay cả những người trong nước cũng không tôn trọng lá cờ này mặc dù đó là lá cờ đang tung bay khắp lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Người Việt hải ngoại tôn trọng lá cờ vàng ba sọc đỏ, không chỉ thuần túy vì đó là lá cờ của Việt Nam Cộng Hoa, của chính phủ Miền Nam Việt Nam mà vì đó là một biểu tượng cho một quốc gia mà đáng lẽ dân tộc Việt Nam phải có, một chính phủ tự do dân chủ, một nền kinh tế thịnh vượng, một xã hội công bằng bác ái mà lá cờ đỏ và cái chính phủ Việt gian cộng sản ngày nay tại Hà Nội sau 36 năm làm chủ đất nước đã chứng minh những điều ngược lại.
Dĩ nhiên, lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ mà những người sinh sống tại Miền Bắc không quen mắt, không chấp nhận dù họ có thù ghét chế độ cộng sản mà họ đang sinh sống đến tận xương tủy. Người ta không thể chấp nhận một biểu tượng mà người ta không biết, không hiểu, không có những kỷ niệm đẹp, không hy sinh xương máu để bảo vệ nó. Nhất là khi chỉ một sớm, một chiều, những người Việt Nam không chấp nhận Cộng Sản đã mang theo lá cờ vàng trên đường lưu vong, dù phải trải qua những nơi địa ngục trần gian là những nhà tù của cộng sản, và đã phải để lại sau lưng quê hương yêu dấu, mảnh vườn nhỏ, mái nhà ấm cúng, con sông hiền hoà, sau khi đã được chứng kiến chủ nghĩa xã hội cộng sản tiêu biểu cho văn hoá, đạo đức, luân lý Việt Nam phân hoá dần dần trước mắt. Việt Nam Cộng Hoà mặc dù là một xã hội chưa hoàn bị nhưng đã hình thành được mọi cơ cấu của một xã hội văn minh, công bình và dân chủ. Người Việt sống tại Miền Bắc đói khổ, đã phải hy sinh mọi thứ cho nhu cầu chiến tranh theo sự tuyên truyền của cộng sản nên có thể nói hầu hết đều không biết gì về Việt Nam Cộng Hoà.
Việt Nam Cộng Hòa không phải là Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ… mà là xã hội Miền Nam Việt Nam xây dựng trên căn bản giáo dục. Đó là những cô bé, cậu bé đến trường mỗi buổi sáng, mặc đồng phục với nét mặt tinh anh trong sáng của tuổi thơ. Đó là những cô nữ sinh áo trắng dễ thương và ngoan ngoãn, thuần hậu trong gia đình. Đó là những thầy, cô giáo sống và hãnh diện với thiên chức của một bậc thầy và được mọi người trong xã hội kính trọng. Trước 1975 Việt Nam Cộng Hoà đã đào tạo nhiều chuyên viên với tiêu chuẩn quốc tế, văn bằng của VNCH được chính phủ Hoa Kỳ, Pháp và nhiều quốc gia khác công nhận tương đương hoặc gần tương đương. Nghề thầy do đó không phải là một thứ… “chuột chạy cùng đường mới vào sư phạm” như ngày nay. Nhưng trong ký ức của tuổi trẻ miền Nam Việt Nam thì Việt Nam Cộng Hoà là những con đường ngợp bóng lá me, các nam sinh đi theo nữ sinh mỗi khi tan học nhưng không dám có một cử chỉ sàm sỡ, một lời nói vô lễ. Phải nhắc đến điều này vì những kỷ niệm đẹp của thời thiếu niên thường ghi sâu trong ký ức người ta suốt đời:
Lời ru nào níu được
Lúc những cánh me xanh
Bay mềm con lộ nhớ
Em sau khung cửa đạn soi
Sách ngăn tầm mắt đời ngoài lộ cao
Khi không lòng bỗng dạt dào
Sông tôi cạn nước nguồn nào bỗng đi
(Bài cho người trong vườn dược thảo, thơ Du Tử Lê)
Cuộc chiến càng thảm khốc thì lại có biết bao thanh niên theo tiếng gọi của núi sông lên đường nhập ngũ để bảo vệ một hậu phương bình yên trong đó có cha, có mẹ, có anh, có em, có cái gia đình nhỏ bé của mình. Đó là lý tưởng. Đó là những chàng trai anh hùng của thế hệ. Hàng trăm ngàn bài hát, bài thơ đã được viết ra trong giai đoạn này và cho đến nay vẫn còn là nguồn cảm hứng bất tận cho toàn nước Việt Nam thống nhất. Nó chính là “nhạc vàng” của văn hoá Việt:
Anh rót cho khéo nhé
Kẻo trúng nhằm nhà tôi
Nhà tôi ở cuối thôn Đoài
Có giàn thiên lý có người tôi thương.
(thơ Yên Thao)
Hay
Năm năm rồi đi biệt
Đường xưa chưa lối về
Thương người em năm cũ
Thương goá phụ bên song
(thơ Phạm Văn Bình)
Hình ảnh của những tân sinh viên sĩ quan trong quân phục đại lễ ngày tốt nghiệp ở Đà Lạt, ở Nha Trang, ở Thủ Đức là những hình ảnh tinh anh của dân tộc Việt, không phải là hình ảnh của “nợ máu với nhân dân” sau ngày 1975 đâu. Họ đã chọn binh nghiệp để bảo vệ từng tấc đất của quê hương đang bị dày xéo vì bom đạn gây ra bởi bọn lãnh tụ cộng sản vô thần. Bây giờ sau 36 năm nhìn lại, nhìn thế hệ thanh niên tan rã mệt mỏi, tương lai không lối thoát của Việt Nam thời cộng sản mà thương cho họ không biết là bao nhiêu. Thương tuổi thơ của những người không lý tưởng, chỉ nắm “cái đuôi của đảng cộng sản Việt Nam” mà nhìn ra thế giới bên ngoài và trở thành một thế hệ “vô cảm” đến rợn người. Đời sống chỉ còn là sự tranh đua để đạt được điạ vị trong đảng vì quyền đi với tiền. Bằng được mua bằng tiền chứ không cần học để có kiến thức. Trong một quốc gia nghèo đói vào hàng nhất thế giới nhưng có hàng nửa triệu “tiến sĩ ma” làm trò cười cho thế giới.
Xã hội Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 không phải là hoàn toàn trong sạch, không có bóng dáng của tham nhũng nhưng tham nhũng không phải là một chính sách để cai trị nước như đảng cộng sản Việt Nam ngày nay. Người dân Miền Nam sống hiền hoà trong tôn ti trật tự, trong đời sống hàng ngày, họ không phải đối đầu với cảnh sát, công an. Không phải bất cứ khi nào có việc liên hệ với chính quyền thì phải trả tiền cho công an từ xã, huyện, tỉnh đến trung ương. Khi vào bệnh viện, không có việc đút lót tiền thì mới có được giường nằm. Trẻ con học giỏi thì được xếp hạng cao, được cho đi du học dù là con nhà nghèo. Sĩ quan đánh trận oai hùng, gan dạ thì được thăng thưởng. Nhà cháy thì được cứu hỏa chữa cháy chứ không phải trả tiền mới được chữa cháy.
Về chính trị, Việt Nam Cộng Hoà là một nước dân chủ tự do thực sự mặc dù cũng có những khuyết điểm. Trước 1975 tại Miền Nam Việt Nam, chính phủ công nhận đối lập, cho biểu tình chống đối tự do nên từ những năm 1965 đã có nhiều cuộc biểu tình chống Mỹ, chống Thiệu Kỳ, chống tham nhũng thoải mái của sinh viên học sinh, của nhân dân. Có những ông giáo sư đại học nhận mình là thành phần thứ ba, theo chủ thuyết xã hội chứ không phải là chủ thuyết Mác Lê công khai ra báo, viết sách, viết luận án đại học lên án chính phủ, lên án chiến tranh, nhưng lại ve vãn cộng sản vì lý luận ấu trĩ rằng chính phủ Miền Nam bị Mỹ giựt dây, muốn chấm dứt chiến tranh thì phải nói chuyện với Hà Nội. Kinh tế thương mại tự do không bị chính phủ kiềm chế, về an ninh xã hội người dân được luật pháp bảo vệ, cảnh sát công an ức hiếp nhân dân bị truy tố ra trước pháp luật ngay.
Xã hội Miền Nam tự do tạo môi trường để tinh anh phát tiết trên mọi phương diện. Ngày nay, sau 36 năm nhìn lại, đảng cộng sản Việt Nam vẫn không biết rằng khi giam hãm, đầy đọa hàng triệu người sống ở Miền Nam có liên hệ với chính quyền đem nhốt vào ngục tù, họ đã hủy diệt đi hầu hết những nhân tài về mọi mặt của đất nước, những trí thức khoa bảng mà có thể vài trăm năm sau, Việt Nam chưa thể có lại. Miền Nam Việt Nam không chỉ “sản xuất” có hai “thiên tài” là Trịnh Công Sơn và Bùi Giáng đâu. Nhưng Việt cộng chỉ “chấp nhận’ có hai người này vì một anh thì trốn lính, sống hèn mọn trong sự che chở bao dung của chính phủ Miền Nam tôn trọng nghệ sĩ, còn người kia thì mang bệnh tâm thần. Cứ đếm lại số sách đã được xuất bản tại Miền Nam trong 20 năm từ 1954 đến 1975, từ khoa học đến chính trị, từ truyện ngắn, truyện dài, thơ văn đến âm nhạc rồi so sánh với 60 năm cộng sản CAI TRỊ Việt Nam thì sẽ hiểu.
Do đó, so với xã hội Việt Nam dưới thời Việt gian cộng sản thì xã hội Việt Nam Cộng Hoà là thiên đường, là con đường mà Việt Nam cần nhiều thập niên mới “back to the future” được. Những người Việt Nam sống tại Miền Nam trước 1975, biết rõ điều này. Lá cờ vàng và danh hiệu Việt Nam Cộng Hoà vì sao vẫn được họ sùng kính dù Việt Nam Cộng Hoà đã mất đi phần đất cuối cùng đã 36 năm.
***
Vì không được sống, không được trưởng thành, không được hoạt động chính trị, văn hoá hay sống đời quân ngũ của xã hội Miền Nam nên không có gì ngạc nhiên khi những người trí thức Cộng Sản thù ghét bọn cầm quyền cộng sản vì đã hất cẳng họ, đã đẩy họ ra khỏi nước, rồi vì hậm hực nên suốt ngày ngồi viết những điều phản đối bọn cầm quyền cộng sản nhưng vẫn vinh danh bác Hồ và “kẻ cả” xem cộng đồng Người Việt hải ngoại là những kẻ bại trận, lá cờ vàng là vô nghĩa nên không muốn đoàn kết để lật đổ chế độ độc tài cộng sản mà họ là một thành phần cốt cán trước đây. Sống nơi xứ sở tự do này, chúng ta nên tôn trọng họ. Thái độ không muốn đứng chung trong hàng ngũ với Người Việt quốc gia cũng là một điều dễ hiểu: bối cảnh lịch sử do đảng cộng sản Việt Nam từ 60 năm qua đã chia dân tộc và đất nước Việt Nam ra thành nhiều khối: trí thức, công nhân, cộng sản, quốc gia, vv…vv… Điều khó hiểu là những người cán bộ đảng trung kiên bị thất sủng như ông Nguyễn Minh Cần, ông Bùi Tín, ông Vũ Thư Hiên thường viết bài dạy Người Việt quốc gia, những công dân của Việt Nam Cộng Hoà chống cộng trong khi họ nhìn thấy trước mắt, cái đảng tạo ra họ, cho họ một vị thế, một tên tuổi, chính cái đảng đó đang làm tan rã đất nước và con người Việt Nam. Cái đảng bất nhân đó đang chia 85 triệu Người Việt ra làm hai khối: đại đa số quần chúng bình dân, không có phương tiện về an sinh xã hội, không có giáo dục, sống đời nô lệ phục vụ cho một thiểu số cán bộ tham ô mà ngôn ngữ Việt cộng gọi là “quan tham”. Cái đảng bất nhân đó đang đưa đất nước đến cái họa diệt vong trong tay Tàu Cộng.Sau 1975, Người Việt Quốc Gia, những công dân của Việt Nam Cộng Hoà vì thất thế nên chúng gọi là “ngụy”, đày ải quân dân cán chính trong rừng già để chết dần chết mòn, gia đình ly tán, con cái thất học, nên bằng mọi cách Người Việt Quốc Gia phải ra đi và bằng ý chí cương cường quật khởi cuả dân tộc Việt Nam, khối Người Việt Tự Do, những công dân cuả Việt Nam Cộng Hoà đã chọn thế giới làm lãnh thổ, phát triển tài lực và trí tuệ, ngăn chận được sự tuyên truyền và bành trướng của bọn Việt gian cộng sản khắp nơi. Có mà nằm mơ, người ta cũng không thể nghĩ rằng những công dân Việt Nam Cộng Hòa trong điều kiện sinh sống dù lưu vong, dù trong lao tù cộng sản đã giữ vững được ý chí chống cộng đến thế. Thế hệ thứ hai của cộng đồng Người Việt tị nạn cộng sản, của những công dân của Việt Nam Cộng Hòa vẫn giữ được nguyên vẹn đạo đức và luân lý của Việt Nam. Trong mọi gia đình, những đứa trẻ không nói rành tiếng Việt hay nói tiếng Việt với giọng ngọng nghịu của người bản xứ nhưng đều là những đưá trẻ ngoan ngoãn vì chúng biết rằng cha mẹ chúng phải lưu vong, phải hy sinh nhiều để chúng được lớn lên ở một đất nước tự do, có cơ hội để phát triển trí tuệ, những điều chúng sẽ không có được nếu sống dưới một chế độ cộng sản, như Việt Nam cộng sản ngày nay, như Cuba, như Bắc Hàn, hay ngay cả Trung cộng…
Nhưng những người như ông Nguyễn Minh Cần, ông Bùi Tín đâu phải là ngụy. Các ông này là những “trí thức cộng sản” lớn lên trong lòng chế độ. Đáng lẽ các ông đừng hèn, hãy ở lại Việt Nam, hãy kêu gọi nổi dậy, hãy dẫn dắt toàn dân chống lại cái đảng cướp đã tạo ra các ông, hãy cho toàn dân biết ‘chúng” đã đi sai… đường cách mạng. “Con đường Bác đi” cuả các ông không lẽ lại là con đường… bi đát, đưa hàng trăm ngàn gái Việt ra hải ngoại lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan, làm mãi dâm mới có cơm ăn? “Con đường Bác đi” không lẽ lại là con đường dâng nước Việt cho Tàu? Các ông hãy can đảm đứng dưới ngọn cờ do các ông lựa chọn miễn là các ông bảo vệ được dân, được đất nước khỏi rơi vào tay giặc là được. Hãy hành động như các chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã làm trước khi bị tước súng vì một thế cờ chính trị thế giới: họ đã đứng lên, đã anh dũng hy sinh, đã chống lại áp bức của chính quyền để bảo vệ dân, bảo vệ từng tấc đất Miền Nam để rồi đảng các ông đã lừa gạt dân Miền Bắc, đưa họ vào Nam, đem sinh mạng làm bia đỡ đạn để “giải phóng” một Miền Nam trù phú, một xã hội tôn ti trật tự, đạo đức văn hoá, luân lý cần được bảo tồn.
Mới đây có một bài viết của một người thuộïc thế hệ trẻ có tựa đề “Hãy để cho Việt Nam Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên” do diễn đàn danchimviẹt.info (BBT: Trong bài, tác giả viết .com) phổ biến với lời toà soạn như sau:
(Trích)
LTS: Trong công cuộc đấu tranh dân chủ hóa VN hôm nay, tìm hiểu tư duy của lớp người trẻ không tham dự vào cuộc chiến quốc-cộng trước kia – mà sẽ là chủ lực cách mạng nay mai – là một điều cần thiết. ĐCV chọn đăng bài viết của tác giả Tiên Sa trên mạng xã hội facebook cũng nằm trong tinh thần đó. Mời bạn đọc cùng suy tư và chia sẻ. (hết trích)
Nội dung bài viết của người bạn trẻ này cũng như nội dung bài viết của ông cán bộ già thất sủng Nguyễn Minh Cần giống nhau ở chỗ: cuộc cách mạng lật đổ bạo quyền cộng sản chưa xảy ra nhưng họ đã sợ lá cờ vàng và chế độ Việt Nam cộng hoà được tái lập ở Việt Nam… sau 36 năm bỏ chạy. Đào Nương tôi không tin đây là bài viết của một người viết trẻ ở hải ngoại. Thật ra, tháng 4, 1975, Người Việt Miền Nam đã quá mệt mỏi với một cuộc chiến không lối thoát giữa hai ý thức hệ tự do và cộng sản. Cái thành trì bảo vệ thế giới tự do đã không còn đứng vững sau khi tổng thống Hoa Kỳ Nixon qua gặp Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Giữa một bên chiến đấu với viện trợ có điều kiện và một bên được viện trợ vô điều kiện (?) của khối cộng sản, sự chiến thắng khó lòng ở về phía VNCH.
Khi buông súng năm 1975, Người Việt Miền Nam đã muốn “Hãy để cho Việt Nam Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên” để hai miền cùng nhau xây nước và dựng nước chứ. Nhưng việc gì đã xãy ra sau đó, chắc Ban Biên Tập của Đàn Chim Việt, nơi phát tán những bài viết của ông Nguyễn Minh Cần và “người bạn trẻ” Tiên Sa chắc đã biết rõ hơn ai hết: hàng triệu quân dân cán chính Miền Nam bị đầy vào lò “cải tạo”, gia đình họ bị đẩy đi vùng kinh tế mới, cướp nhà, cướp của, con cái họ không được đến trường. Cho đến ngày nay, những người sinh sống tại Miền Nam vẫn còn là những công dân hạng hai trên đất nước mình.
Vì nghĩ rằng “Hãy để cho Việt Nam Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên” nên hàng triệu người Miền Nam đã buông súng, xếp hàng đi tù cải tạo vì nghĩ rằng một giai đoạn chiến tranh tương tàn đã đi qua, đi trình diện một tháng rồi về sống đời công dân của một quốc gia độc lập và thống nhất. Chuyện gì đã xảy ra cho họ, cho những người sinh sống tại Miền Nam sau 1975?
Không lẽ ngày nay, trong công cuộc cứu nước, khi không còn ở vị thế cầm quyền thì những công dân của Việt Nam Cộng Hoà không thể là một tiếng nói đối lập với cái chính quyền vô nhân đang cai trị đất nước Việt Nam hay sao? Chúng ta sẽ đấu tranh để những người dân của đất nước Việt Nam dân chủ và tự do có quyền lựa chọn cho họ một đảng phái cầm quyền, họ sẽ biểu quyết về một lá cờ tượng trưng cho đất nước. Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay có 3 triệu đảng viên hầu hết là bọn thất học, tham ô. Cứ nhìn vào xã hội Việt Nam ngày nay thì thấy rõ. Cộng đồng Người Việt tị nạn cộng sản ở nước ngoài có 3 triệu người nhưng đồng thời họ cũng là công dân của những quốc gia tự do và dân chủ. Việc họ phải sống lưu vong ở hải ngoại không phải là một việc trốn chạy hèn nhát mà là hậu quả tất nhiên cuả một cuộc chiến tương tàn có kẻ thua, người thắng. Khi họ tập hợp để nói lên tiếng nói của Người Việt không chấp nhận chế độ cộng sản, một tiếng nói đối lập là một việc làm cần thiết khi Người Việt không thể làm được điều này ở quê hương. Tiếng nói đối lập này và lá cờ vàng trong giai đoạn này chắc hẳn là cần thiết cho công cuộc đấu tranh hơn là tiếng nói “lèm bèm” của những ông đảng viên thất sủng “chạy trốn” ra nước ngoài chứ?
Hy vọng bài viết này sẽ giải thích được phần nào tại sao Người Việt không cộng sản không thể “Để cho Việt Nam Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên” được. Vì đó là tương lai của đất nước Việt Nam. Đừng bàn cãi trên những trang giấy hay trên những trang mạng điện tử. Thực tế chứng minh cho hành động. Trong 60 năm, đảng cộng sản Việt Nam đã tàn phá đất nước và con người Việt Nam đến tận cùng đáy vực, khi các ông “trí thức cộng sản” đủ hết hèn để la làng (nhưng cũng phải núp đàng sau cái xác còn thở của “đại tướng”) về cái hoạ mất nước mà cũng chỉ như tiếng rên trong lăng Ba Đình cuả cái xác thối rữa chưa chôn thì chúng ta có cần bàn cãi thêm về cờ vàng hay cờ đỏ không? Ngược lại, chỉ trong 36 năm, cộng đồng Người Việt tị nạn cộng sản đã “bành trướng” điạ bàn hoạt động khắp năm châu, những khu phố Việt Nam sầm uất, vững mạnh hơn các ChinaTown của người Tàu, mỗi năm cộng đồng Người Việt gửi về nuôi thân nhân hàng chục tỹ đô la. “Chạy trốn, thua trận” mà làm nên … nghiệp lớn như vậy trong khi bọn cộng sản Việt Nam thì co cụm lại trong các toà sứ quán, ra đường thì mắt la, mày lét sợ người dân bắt gặp. Lãnh tụ ngoại giao như tên Nguyễn Xuân Việt ở Jordanie thì hành xử như bọn đầu gấu, du đãng khiến thế giới phải bàng hoàng và người nữ công nhân 20 tuổi bị xúc phạm đã được Hoa Kỳ cho nhập cảnh vì lý do chính trị thì đủ hiểu.
Dĩ nhiên, ở đâu, xã hội nào thì cũng gồm đủ con gà, con công, con phụng… đừng nhìn vào đàn gà của cộng đồng Việt Nam hải ngoại rồi kết luận tất cả chỉ là một đàn gà mà lầm to. Nhưng có một điều có thể coi như là chân lý “không thay đổi” dù bên này hay bên kia bờ Thái Bình Dương: đảng viên cộng sản thì anh nào cũng hèn, cứ phải dựa vào nhau để sống còn, để được làm “quan tham” bóc lột dân lành. Chúng đoàn kết theo đúng tôn chỉ “tranh đấu đến cùng với kẻ thù, chỉ hoà giải với nội bộ”. Trong khi nếu vì tương lai dân tộc thì phải tìm cách liên kết mọi người với nhau chứ. Ra đến hải ngoại vẫn còn sợ lá cờ vàng nhưng tiền bạc của cờ vàng thì đưa lên mặt mà hít hà. Khinh bọn “thất trận, giặc ngụy” bỏ chạy, nhưng lại sợ chúng nó trở thành một thế chính trị đối lập trở về nhưng vẫn ra chính sách ve vãn Việt kiều. Chơi với cái đầu “ngụy” thì không dám chơi chỉ muốn chơi với các“khúc ruột thừa” của họ?
Việt Nam Cộng Hoà phải sống mãi trong lòng người Việt không cộng sản là vì thế! Vì không muốn nhận sự nhục nhã là công dân của một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, muốn bảo vệ ngư dân cũng phải xin phép “thằng” Tàu cộng!
Chúng ta hãy hành động. Tự cứu mình và cứu những người khác nữa. Vì tương lai, xin tất cả hãy tìm cách liên kết với nhau trong tình dân tộc.
© Đào Nương
Thứ Năm, 16 tháng 6, 2011
Kinh Khủng Khiếp - Người Việt Yêu Nước (cấm trẻ em & bô lão)
Hể là người Việt - nghĩa là liền ông khi cáu thì đm khi vui thì biết ăn thịt chó chấm mắm tôm uống cuốc lủi nghĩa là liền chị liền em khi giời nóng thì nấu bát canh riêu cho nhà khi buồn tình thì ra chợ xơi ly chè đậu đỏ bánh lọt cho vơi sầu nhân thế - thời phải yêu nước. Phải thế thôi! không cần phải nói! không cần phải buộc!
Nếu nói huỵch toẹt ra tớ là người yêu nước đích thị tớ đang làm chuyện f'cking mẹ rượt. Đích thị cái thằng tớ đây đek phải là người Việt mà là ngừ lạ.
Bởi vậy, lòng yêu nước của người Việt là bản năng di truyền, là thiên truyền vạn kiếp, là bất khả tư nghị, là quyền thiêng liêng cha Lạc Long Quân mẹ Âu Cơ ban cho giòng dõi Việt tộc.
Âý thế lại có đứa cho rằng cái thiên quyền bản năng đó phải được quản lý bằng chính sách. Nghỉa là người Việt chỉ được yêu nước khi được CHO phép. NO phép là NO yêu. (**)
Nếu thế đứa có quyền CHO và CẤM, đéo(*) phải là người Việt nửa mà chính là ngừ lạ.
(*) tớ là người Việt nên tớ phải có quyền xài card khi cáu
(**) ở bên xứ Lạ khi viết đơn xin cưới vợ củng phải viết tiêu đề là xin mao chú-xễ. bên ta có nhiều đứa học đòi xứ Lạ, nghe nói (nghe nói thôi đấy) trước khi "ấy" vợ, nó làm theo đúng chánh sách là đứng tổng ngồng tồng ngồng đứng dựng như cột cờ nghiêm trang trước ảnh bác xin phép được "ấy" vợ. damn.
Nếu nói huỵch toẹt ra tớ là người yêu nước đích thị tớ đang làm chuyện f'cking mẹ rượt. Đích thị cái thằng tớ đây đek phải là người Việt mà là ngừ lạ.
Bởi vậy, lòng yêu nước của người Việt là bản năng di truyền, là thiên truyền vạn kiếp, là bất khả tư nghị, là quyền thiêng liêng cha Lạc Long Quân mẹ Âu Cơ ban cho giòng dõi Việt tộc.
Âý thế lại có đứa cho rằng cái thiên quyền bản năng đó phải được quản lý bằng chính sách. Nghỉa là người Việt chỉ được yêu nước khi được CHO phép. NO phép là NO yêu. (**)
Nếu thế đứa có quyền CHO và CẤM, đéo(*) phải là người Việt nửa mà chính là ngừ lạ.
(*) tớ là người Việt nên tớ phải có quyền xài card khi cáu
(**) ở bên xứ Lạ khi viết đơn xin cưới vợ củng phải viết tiêu đề là xin mao chú-xễ. bên ta có nhiều đứa học đòi xứ Lạ, nghe nói (nghe nói thôi đấy) trước khi "ấy" vợ, nó làm theo đúng chánh sách là đứng tổng ngồng tồng ngồng đứng dựng như cột cờ nghiêm trang trước ảnh bác xin phép được "ấy" vợ. damn.
Thứ Ba, 14 tháng 6, 2011
Kinh Khủng Khiếp :: truyện cái nỏ thần
Lúc bị thằng rể chệt trời đánh lừa và lính chệt tràn qua biên ải thì Trọng Phú Vương phải dắt con gái chạy ra biển. Réo mãi mà thần Kim Quy chẳng tới cứu. Lúc định tắt xeofône thì có đám dân chài chạy tới chạy lui mà kêu:
_"Giời ơi, tàu lạ nó vào đầy cả biển rồi mà thần Kim Quy nay cũng lọt vô nồi lẫu hongkong rồi!"
Vương dợm chạy lên núi thì gặp một đám dân Thượng vừa đi vừa khóc vừa chửi:
_"Mả cha thằng nào rước lính lạ vào bản làng Tây nguyên! Đường đâu mà sống đây, giàng ơi!"
Trọng Phú Vương đành dẩn bầu đoàn thê thiếp dông lên chiếc phi thoàn mới cáu hiệu Ebớt bay một lèo qua tới xứ bạch quỷ mà an trú hưởng của báu để mặc lủ dân đen làm thân nô lệ.
Dân khóc thì có người than:
_" sao lúc giặc chưa vào, không lấy nỏ thần bắn mẹ nó cái thằng vương kia thì may ra còn giử được nước!!!"
_"Giời ơi, tàu lạ nó vào đầy cả biển rồi mà thần Kim Quy nay cũng lọt vô nồi lẫu hongkong rồi!"
Vương dợm chạy lên núi thì gặp một đám dân Thượng vừa đi vừa khóc vừa chửi:
_"Mả cha thằng nào rước lính lạ vào bản làng Tây nguyên! Đường đâu mà sống đây, giàng ơi!"
Trọng Phú Vương đành dẩn bầu đoàn thê thiếp dông lên chiếc phi thoàn mới cáu hiệu Ebớt bay một lèo qua tới xứ bạch quỷ mà an trú hưởng của báu để mặc lủ dân đen làm thân nô lệ.
Dân khóc thì có người than:
_" sao lúc giặc chưa vào, không lấy nỏ thần bắn mẹ nó cái thằng vương kia thì may ra còn giử được nước!!!"
Thứ Tư, 8 tháng 6, 2011
Kinh khủng khiếp :: Dị Đồng
Đồng: dân chệt và dân Việt đều phải yêu & ghét theo ý đảng
Dị: dân chệt được tự do ghét nước Việt Nam - lính chệt được tự do giết người Việt
dân Việt được tự do "yêu" têku hán hôi chỉ cấm ghét têku hay hán hôi
Đồng: sẽ có ngày Việt-chệt đánh nhau chí tử
Dị: chệt sẽ thua sặc gạch thua y như Cung Lê đập thằng chệt na-shun khổng lồ muốn ngáo
vì người Việt tâm niệm lời hịch của Quang Trung Hoàng Đế:
"Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ."
http://www.youtube.com/watch?v=OWjh4HTiDBk
Dị: dân chệt được tự do ghét nước Việt Nam - lính chệt được tự do giết người Việt
dân Việt được tự do "yêu" têku hán hôi chỉ cấm ghét têku hay hán hôi
Đồng: sẽ có ngày Việt-chệt đánh nhau chí tử
Dị: chệt sẽ thua sặc gạch thua y như Cung Lê đập thằng chệt na-shun khổng lồ muốn ngáo
vì người Việt tâm niệm lời hịch của Quang Trung Hoàng Đế:
"Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ."
http://www.youtube.com/watch?v=OWjh4HTiDBk
Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011
Viết từ đồng bắp 31 - Đàn bò vào thành phố
Sáng sớm nay mình lại thức quá sớm. Giấc ngủ nặng nề ngắn ngũi chỉ làm thêm rời rã. Pha ly café và bình trà quạu rồi ra sau nhà ngồi. Kẻ tha hương bao giờ củng ráng mang theo chút gì đó của cố quận bên lòng. Cuối tuần đi garage sales vớ được một cái bàn thấp và mấycái ghế nhỏ xíu loại dành cho trẻ con. Mua thì mợ cằn nhằn cứ tha "rác" về hoài.Mợ nói kệ... mợ. Heheh. Mình cần có cái bàn thấp kiểu bàn cùa các quán café cóc. Sáng nay có dịp xài rồi đấy.
Trời còn mờ trong sương. Đâu chừng mới bốn giờ sáng thôi. Ngồi dựa tường nhìn mông lung vào khoảng sân. Yên tỉnh thật. Đeo cái headset lên tai và mở lại cái cd Khánh Ly củ mèm mua ở Bolsa năm nảo. Tiếng nhạc xưa oà vỡ trong lời hát "đàn bò vào thành phố reo buồn tiếng hạt chuông..."
Lâu rồi không nghe nhạc Trịnh Công Sơn. Không muốn nghe thì đúng hơn. Hơn hai mươi năm rồi lại nghe bản nhạc này. Cảnh tượng đàn bò lạc vào thành phố sau Tết Mậu Thân 1968 thê lương. Lời than khóc cho một cuộc chiến phi nghĩa. Phận người điêu linh.
Hơn bốn mươi năm rồi tự ngày bản nhạc buốn rầu kia được viết. Bây gìờ nghe lại với một cảm xúc mới. Ba mươi sáu năm qua từ ngày miền Nam đổi chủ nhưng cuộc chiến vẩn chưa tàn. Kẻ bán nước đem chủ nghĩa cộng sản ngoại lai man rợ về dày xéo đồng bào vẫn còn đó. Sự trả thù vẫn còn đó. Con cháu những người lính VNCH vẫn còn bị kỳ thị đối xử. Bây giờ cả dân tộc Việt Nam trở thành một đàn bò ngoan ngoãn trong tay đảng. Đồng chí Bò rất gương mẫu. Làm việc hết năng lực - chẳng hề đòi hỏi chi - không biết phàn nàn ca cẩm - không có ý kiến lề phải lẫn trái - trung thành hết mực và cam chịu cái chết để nuôi sống Lảnh tụ đàn bò. Bây giờ đàn bò kia chỉ còn biết "đứng mơ mây ngàn". Tự do như mây trời quá xa tầm tay với.
Không viết gì thêm nổi vì buồn lắm...
Du Mục
Đàn bò vào thành phố
Đêm buồn vắng buồn hơn
Đàn bò vào thành phố
Không còn ai hỏi thăm
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn
Rồi một hôm đứng mơ mây ngàn
Một người vào thành phố
Đếm từng bước buồn tênh
Một người vào thành phố
Không còn ai người quen
Người tìm về đồng xanh
Nhưng đồng đã bỏ không
Rồi người bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn
Người chợt nghe xót xa đất mình
Điệp khúc:
Ôi quê hương đã lầm than
Sao còn, còn chiến tranh
Mẹ già hết chờ mong
Đã ngủ yên
Mẹ già mãi ngủ yên
Buông lời ru cho muôn năm
Buông vòng nôi cho hư không
Cho hư không buông bàn tay
Con đi hoang
Con đi hoang một đời
Con đi hoang phận này
Đàn bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt chuông
Một người vào thành phố
Nghe hồn giá lạnh băng
Người tìm về đầu non
Nhưng rừng đã bỏ hoang
Rồi người bỗng hết buồn đã hết buồn
Người lặng nghe đá lên trong mình
Trời còn mờ trong sương. Đâu chừng mới bốn giờ sáng thôi. Ngồi dựa tường nhìn mông lung vào khoảng sân. Yên tỉnh thật. Đeo cái headset lên tai và mở lại cái cd Khánh Ly củ mèm mua ở Bolsa năm nảo. Tiếng nhạc xưa oà vỡ trong lời hát "đàn bò vào thành phố reo buồn tiếng hạt chuông..."
Lâu rồi không nghe nhạc Trịnh Công Sơn. Không muốn nghe thì đúng hơn. Hơn hai mươi năm rồi lại nghe bản nhạc này. Cảnh tượng đàn bò lạc vào thành phố sau Tết Mậu Thân 1968 thê lương. Lời than khóc cho một cuộc chiến phi nghĩa. Phận người điêu linh.
Hơn bốn mươi năm rồi tự ngày bản nhạc buốn rầu kia được viết. Bây gìờ nghe lại với một cảm xúc mới. Ba mươi sáu năm qua từ ngày miền Nam đổi chủ nhưng cuộc chiến vẩn chưa tàn. Kẻ bán nước đem chủ nghĩa cộng sản ngoại lai man rợ về dày xéo đồng bào vẫn còn đó. Sự trả thù vẫn còn đó. Con cháu những người lính VNCH vẫn còn bị kỳ thị đối xử. Bây giờ cả dân tộc Việt Nam trở thành một đàn bò ngoan ngoãn trong tay đảng. Đồng chí Bò rất gương mẫu. Làm việc hết năng lực - chẳng hề đòi hỏi chi - không biết phàn nàn ca cẩm - không có ý kiến lề phải lẫn trái - trung thành hết mực và cam chịu cái chết để nuôi sống Lảnh tụ đàn bò. Bây giờ đàn bò kia chỉ còn biết "đứng mơ mây ngàn". Tự do như mây trời quá xa tầm tay với.
Không viết gì thêm nổi vì buồn lắm...
Du Mục
Đàn bò vào thành phố
Đêm buồn vắng buồn hơn
Đàn bò vào thành phố
Không còn ai hỏi thăm
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn
Rồi một hôm đứng mơ mây ngàn
Một người vào thành phố
Đếm từng bước buồn tênh
Một người vào thành phố
Không còn ai người quen
Người tìm về đồng xanh
Nhưng đồng đã bỏ không
Rồi người bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn
Người chợt nghe xót xa đất mình
Điệp khúc:
Ôi quê hương đã lầm than
Sao còn, còn chiến tranh
Mẹ già hết chờ mong
Đã ngủ yên
Mẹ già mãi ngủ yên
Buông lời ru cho muôn năm
Buông vòng nôi cho hư không
Cho hư không buông bàn tay
Con đi hoang
Con đi hoang một đời
Con đi hoang phận này
Đàn bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt chuông
Một người vào thành phố
Nghe hồn giá lạnh băng
Người tìm về đầu non
Nhưng rừng đã bỏ hoang
Rồi người bỗng hết buồn đã hết buồn
Người lặng nghe đá lên trong mình
Thứ Hai, 6 tháng 6, 2011
Viết từ đồng bắp 30 - Tào Khê
Cuối tuần lang thang ra lâm viên để thảnh thơi đầu óc. Ngồi bên bờ suối dưới tàng cây râm mát nghe tiếng nước chảy rào rào qua khe đá. Hơi ẩm man mát với mùi lá mục nồng nồng. Còn gì hơn? Chợt nhớ đến mấy câu ca dao năm củ mà bạn Phong "giáo chủ" đọc cho mình nghe bên dòng suối không tên nào đó miền núi Bà Rịa...
"Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy, dạ còn trơ trơ"
Cách đây mấy tuần một bạn mới sang cho biết bạn ta đã cưởi hạc vân du tự năm nao. Lần này ra suối ngồi mặc niệm một người bạn đã đi xa. Lớp bạn bè năm cũ điễm lại còn mấy tay. Sống sót trở về từ Biên gìới Tây Nam, chiến trường K, Kao-mê-lai, Mặt trận 479 còn nguyên vẹn không sứt sẩy vậy mà thuốc lá và rượu đã lấy mạng bao chàng trong ngày yên tiếng súng!
Đá mòn nhưng tình bạn có mòn đâu. Nhớ thời khốn khó sau ngày mất nước, đám học trò rách thằng đói nhìn thằng khát mà thương. Có củ khoai mì củng chia. Có vài đồng bạc là đi tìm bạn dẩn nó đi uống chung ly café cóc với dăm điếu thuốc "củi". Bây giờ chắc chẳng mấy ai biết thuốc "củi" là gì. Nghe kể về sau "giáo chủ" khá hơn xưa nhưng tiến chẳng làm nó đổi. Bạn vay tiền mà trả là giận. Dẩn bạn đi ăn nhậu là chìu tới bến Ninh Kiều luôn. "Giáo chủ" ơi, mời bạn hiền một ly trà đá vậy.
Tào khê nước chảy, dạ còn trơ trơ. Bao năm, dân ta sống như thể trâu bò dưới cái ách của đảng. Sống phải theo chính sách. Lao động phải theo chỉ thị. Yêu nước và ghét thù lại càng phải đúng theo quy định. Cái phạm trù "cá nhân-individual" chỉ dành cho giai cấp thượng đẳng tối cao lảnh tụ. Dân là "không" theo nghĩa sắc-không nhà Phật hay là "nobody" trong Anh ngữ. Anh nào quờ quạng đi trêch đường rầy thì gông cùm chuyên chính tư sản đỏ mại bản đang chờ.
Những tưởng lòng yêu nước chân thành từ những trái tim của những "người bị đoàn ngũ hóa như trâu bò" đã bị thui chột dưới hàng tấn chính sách luật lệ súng đạn dùi cui. Không! Dân ta lại hiên ngang xuống đường! Giặc phương Bắc đã tới! Chúng lăng nhục dân tộc ta. Chúng xâm chiếm đất nước ta. Lẽ nào chịu nhịn nhục mãi.
Dân ta đã xuống đường. Dân ta lên tiếng nói. Tiếng lòng dân như những dòng nước tuy rất nhỏ nhưng khi hợp đoàn sẽ thành sông thành suối. Khi con nước hùng tráng ầm ầm thẳng tiến thời khó có bờ đập nào ngăn trở nổi. Ngày xưa phạm văn đồng từng ví von dân như nước đã nâng đỡ con thuyền cách mạng đi tới chiến thắng. Những kẻ ác ngụy mại bản kia phải nhớ điều này. Chính lòng dân yêu nước sẽ là con sóng thần tsunami cường hung dập nát con thuyền rồng máu me hoa đăng xa xỉ của chúng xuống đáy bùn lịch sử. Bọn tàu ô xâm lăng kiêu mạn kia. Chúng mày phải nhớ bài học của tiên sư chúng mày - những tên hán gian xác phơi thành gò máu chảy thành sông khi ngu xuẫn muốn tra lên cổ dân tộc anh hùng này vòng xích xiềng nô lệ.
"Bao giờ người Tây nhổ sạch được cỏ nước Nam thì chừng đó sẽ hết người Nam đánh Tây"
"Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy, dạ còn trơ trơ"
Cách đây mấy tuần một bạn mới sang cho biết bạn ta đã cưởi hạc vân du tự năm nao. Lần này ra suối ngồi mặc niệm một người bạn đã đi xa. Lớp bạn bè năm cũ điễm lại còn mấy tay. Sống sót trở về từ Biên gìới Tây Nam, chiến trường K, Kao-mê-lai, Mặt trận 479 còn nguyên vẹn không sứt sẩy vậy mà thuốc lá và rượu đã lấy mạng bao chàng trong ngày yên tiếng súng!
Đá mòn nhưng tình bạn có mòn đâu. Nhớ thời khốn khó sau ngày mất nước, đám học trò rách thằng đói nhìn thằng khát mà thương. Có củ khoai mì củng chia. Có vài đồng bạc là đi tìm bạn dẩn nó đi uống chung ly café cóc với dăm điếu thuốc "củi". Bây giờ chắc chẳng mấy ai biết thuốc "củi" là gì. Nghe kể về sau "giáo chủ" khá hơn xưa nhưng tiến chẳng làm nó đổi. Bạn vay tiền mà trả là giận. Dẩn bạn đi ăn nhậu là chìu tới bến Ninh Kiều luôn. "Giáo chủ" ơi, mời bạn hiền một ly trà đá vậy.
Tào khê nước chảy, dạ còn trơ trơ. Bao năm, dân ta sống như thể trâu bò dưới cái ách của đảng. Sống phải theo chính sách. Lao động phải theo chỉ thị. Yêu nước và ghét thù lại càng phải đúng theo quy định. Cái phạm trù "cá nhân-individual" chỉ dành cho giai cấp thượng đẳng tối cao lảnh tụ. Dân là "không" theo nghĩa sắc-không nhà Phật hay là "nobody" trong Anh ngữ. Anh nào quờ quạng đi trêch đường rầy thì gông cùm chuyên chính tư sản đỏ mại bản đang chờ.
Những tưởng lòng yêu nước chân thành từ những trái tim của những "người bị đoàn ngũ hóa như trâu bò" đã bị thui chột dưới hàng tấn chính sách luật lệ súng đạn dùi cui. Không! Dân ta lại hiên ngang xuống đường! Giặc phương Bắc đã tới! Chúng lăng nhục dân tộc ta. Chúng xâm chiếm đất nước ta. Lẽ nào chịu nhịn nhục mãi.
Dân ta đã xuống đường. Dân ta lên tiếng nói. Tiếng lòng dân như những dòng nước tuy rất nhỏ nhưng khi hợp đoàn sẽ thành sông thành suối. Khi con nước hùng tráng ầm ầm thẳng tiến thời khó có bờ đập nào ngăn trở nổi. Ngày xưa phạm văn đồng từng ví von dân như nước đã nâng đỡ con thuyền cách mạng đi tới chiến thắng. Những kẻ ác ngụy mại bản kia phải nhớ điều này. Chính lòng dân yêu nước sẽ là con sóng thần tsunami cường hung dập nát con thuyền rồng máu me hoa đăng xa xỉ của chúng xuống đáy bùn lịch sử. Bọn tàu ô xâm lăng kiêu mạn kia. Chúng mày phải nhớ bài học của tiên sư chúng mày - những tên hán gian xác phơi thành gò máu chảy thành sông khi ngu xuẫn muốn tra lên cổ dân tộc anh hùng này vòng xích xiềng nô lệ.
"Bao giờ người Tây nhổ sạch được cỏ nước Nam thì chừng đó sẽ hết người Nam đánh Tây"
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)