Thứ Tư, 27 tháng 7, 2011

Chiến sử TQLC Việt Nam - MX Ngô Văn Định

Chiến sử TQLC Việt Nam

MX Ngô văn Ðịnh

Lời trần tình của một người lính :

Đã nhiều năm qua , tôi muốn quên đi những giông bão đã đi qua cuộc đời mình cũng như những ray rứt của cuộc chiến trong những ngày cuối cùng. Nhưng khi muốn quên là lúc mình nhớ đến nhiều nhất. Làm sao mà quên được. Nó luôn luôn hiện diện trong óc, trong tim. Nó là những dòng máu luân lưu trong huyết quản. Nó là những nhịp đập của con tim. Nếu nó ngừng lại thì mình đã đến lúc phải nhắm mắt xuôi tay.

Tôi viết không phải để vinh danh một Binh chủng hay đề cao một cá nhân nào, kể cả bản thân tôi, mà viết để trả một món nợ tinh thần với các Chiến hửu, Đồng đội đã nằm xuống, ít nhất họ cũng không tủi hờn vì bị bỏ quên. Ta có bổn phận phải viết để vinh danh họ, để trả ơn những người đã nằm xuống cho một Quê Hương Miền Nam Nước Việt Tự Do và Công Lý. Viết để xác nhận một điều , trong cuộc chiến vừa qua, chúng ta đã chiến đấu thẳng thắn và can đảm, không mặc cảm, không tự ti và nhất là không hề có một hành động hiếu sát hay bất nhân với những người không cùng chung chiến tuyến nhưng cùng giòng máu đỏ da vàng.

Cho nên tôi sẽ viết lại một số những dữ kiện trong những trận đánh mà tôi có tham dự hoặc có liên quan đến những người khác là do chính các vị ấy cung cấp dữ kiện. Tôi rất ngại viết ra những điều mà mình không thực sự trãi qua mà chỉ nghe kể lại thì có khi không chính xác rồi gây ra những tranh cãi không tránh được.

Nhưng dầu thế nào tôi cũng phải bắt đầu.
Mong quí vị Niên trưởng và các Chiến hửu thông cảm cho.

Năm 19 tuổi , tôi đi vào Quân Đội. Khóa Cương Quyết tại Trường Vỏ Bị Liên Quân Đà lạt. Mản khóa ngày 1/10/1954 cũng là ngày mà Tổng thống Ngô đình Diệm ký nghị định chính thức thành lập Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Được thuyên chuyển về Đại đội số 7 Tuần giang và cũng là đơn vị đầu tiên sát nhập vào thành lập Tiểu đoàn 1 Đổ bộ TQLC vào năm 1955. Cuối năm 1955 , Tiểu đoàn đã tham dự cuộc hành quân tấn công vào những ổ kháng cự cuối cùng của lực lượng Bình Xuyên tại Rừng Sát và lực lượng giáo phái của Trần văn Soái và Ba Cụt tại Rạch Giá. Trận Giồng Riềng xảy ra ngày 6/12/1955 cũng là ngày sinh nhật của tôi.

Những năm sau đó, Liên đoàn TQLC tham dự những cuộc hành quân có tính cách bình định như tại Giồng Trôm ( Kiến Hòa ) hay yểm trợ phát triển như Chiến dịch Sóng Tình thương (3/1/1963 ) . Cuộc hành quân vào mật khu Đổ Xá ( Quãng nam , một nơi mà VC cho là bất khả xâm phạm , của hai Tiếu đoàn 2 (Đ/U Nguyễn thành Yên ) và Tiểu đoàn 4 (Đ/U Bùi thế Lân ). Nhưng TQLC được nhiều người biết đến sau Chiến thắng Đầm Dơi ( 10/9/1963 ). Đ/U Nguyễn thành Yên vẫn là Tiểu đoàn trưởng và các Đại đội trưởng là Tr/U Phạm Nhã, Đ/U Nguyễn văn Hay, Tr/U Nguyễn năng Bảo và Tr/U Ngô văn Định. TĐ2/TQLC được Quân đoàn IV ( Th/tướng Huỳnh văn Cao làm Tư lịnh ) tăng phái cho Tiểu khu An Xuyên do Th/tá Nguyễn thanh Hoàng làm Tiểu khu trưởng đã đánh tan một lực lượng lớn là Tiểu Ðoàn U Minh của VC.


Chiến thắng Đầm Dơi của TĐ2/TQLC là một chiến thắng lớn của QLVNCH vào năm 1963, bốn Đại đội trưởng được Tổng thống Ngô đình Diệm ban thưởng đệ ngũ đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng bội tinh với nhành Dương liểu.


Cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 với sự tham dự của TĐ1/TQLC (Đ/U Trần văn Nhựt ) và TĐ4/TQLC (Đ/U Lê hằng Minh ) là những thành phần quân sự chính. Tôi không muốn phán đoán về những hành động quân sự này, nhưng quả thật những ngày sau đó , miền Nam rơi vào những hổn loạn chính trị và những xáo trộn xã hội . Những cuộc đảo chánh, chỉnh lý, biểu dương lực lượng làm chao đảo cả một thượng tầng kiến trúc Quốc Gia , làm nản lòng những người bạn Đồng Minh. Đây là một sự sai lầm lớn nhất của giới lảnh đạo miền Nam. Và đây cũng là cơ hội tốt nhất cho tập đoàn lảnh đạo Hà nội gia tăng những hành động quân sự tại miền Nam . CS gia tăng phá hoại ở nhiều nơi, chúng quyết tâm triệt hạ những trại Lực Lượng Đặc Biệt trên khắp nước . Trận tấn công trại Lực lượng đặc biệt Hiệp hòa dẫn đến cuộc hành quân Hội đồng Sầm ( 22/11/1963) mở ra để truy kích VC tại vùng biên giới Việt Miên với TĐ2/TQLC do Đ/U Cổ tấn Tinh Châu làm Tiểu đoàn trưởng.


Trận Bình giã nổ ra ngày 31/12/1964 là một chuyển động mới trong thế chiến lược của CS. TĐ4/TQLC đã thư hùng một trận với cả một trung đoàn quân chính qui Bắc việt. Th/tá tiểu đoàn trưởng Nguyễn văn Nho, Đ/U Tiểu đoàn phó Trần văn Hoán, Bác sỉ Trương bá Hân đã tử trận cùng nhiều anh em khác trong TĐ. Đây là nổi đau chung của Liên đoàn. Miền Trung với hai tỉnh Quãng nam và Quãng Ngãi là những vùng chiến trận nổ ra với trận thắng vang dội của TĐ2/TQLC : trận Phụng Dư ( 8/4/1965 ), đánh tan một trung đoàn của SĐ 3 Sao vàng của CS. Cuộc hành quân này do Tr/tá Nguyễn thành Yên làm Chiến đoàn trưởng và Th/tá Hoàng tích Thông làm


Tiểu đoàn trưởng cùng các Đại đội trưởng : Đ/U Phạm Nhã (Đại đội 1 ), Đ/U Nguyễn Văn Hay (Đại Đội 2 ), Đ/U Nguyễn Năng Bảo ( Đại Đội 3 ), Đ/U Ngô Văn Định ( Đại Đội 4 ). Chiến Đoàn gồm Tiểu Đoàn 1do Thiếu Tá Tôn Thất Soạn Tiểu Đoàn Trưởng và Tiểu Đoàn 2 Thiếu Tá Hoàng Tích Thông. Chiến Đoàn đặt thuộc quyền xử dụng của Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Chuẩn Tướng Nguyễn Thanh Sằng Tư Lệnh Sư Đoàn. Sau chiến thắng này 4 Đại Đội Trưởng Tiểu Đoàn 2 đã được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ân thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm theo Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu.


Liên Đoàn TQLC trở thành Lữ Đoàn Thủy Quân Lục chiến năm 1965. Thiếu Tướng Lê Nguyên Khang Tư Lệnh Lữ Đoàn. Lúc này TQLC có 4 Tiểu Đoàn 1,2,3,4 và Chiến Đoàn A và B dưới quyền chì huy của Trung Tá Nguyễn Thành Yên, Tôn Thất Soạn và Hoàng Tích Thông đã lập nhiều thành tích từ đầu năm 65 cho đến ngày đổi danh hiệu là Lữ Đoàn A và B. Đã mang lại cho Quân Kỳ Binh Chủng 4 lần tuyên dương công trạng trước Quân Đội. Lữ Đoàn được mang giây biểu chương màu Quân công Bội tinh. Đại Tá Soạn được ân thưởng nhiểu huy chương, Đệ Tứ Đẳng BQHC kỳ Tết Mậu Thân, Đệ Tam Đẳng BQHC thường niên năm 1972. Huy chương Chung Mu của Tổng Thống Đại Hàn năm 1967 và 2 huy chương Hoa Kỳ, 1 Silver Star”V” và 1 Bronze Star "V"(dử kiện do Ðại Tá Soạn cung cấp) .


Tiểu đoàn 3 /TQLC và Tiểu đoàn 1/TQLC đã tham dự những trận đánh khốc liệt tại hai tỉnh Quãng Nam và Quãng Ngãi như trận Ba gia ( 29/5/1965 ) với TĐ3 và trận chiến bước vào giai đoạn 2 và 3 với Chiến đoàn B gồm TĐ1 và TĐ3 . Đó là trận Ba gia ngày 1/6/1965. Qua năm 1966 , chiến trường miên Trung vẫn còn sôi động với cuộc Hành quân của Chiến đoàn B tại Việt An ( 6/8/1966 ) của Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 4/TQLC.


Cũng năm 1966 xảy ra cuộc Chính biến với sự tham dự cúa Phật giáo miền Trung, Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 tham dự cuộc ổn định này. Tuy nhiên Tiểu đoàn 5 đã mất đi vị Tiểu đoàn trưởng là Th/tá Dương hạnh Phước tại Mộ Đức.


Ngày 29-6-1966, Tiểu Đoàn 2 di chuyển từ An Hòa ( Huế ) ra Quảng Trị tăng phái cho Sư đoàn 1 BB , Tiểu Đoàn bị phục kích và phản phục kích tại Phò Trạch, Phong Điền Thừa Thiên. Có 42 Quân nhân tử trận trong đó có Sĩ quan Trưởng ban 5 và Tiểu Đoàn Trưởng, 95 người bị thương, trong số này có 10 Sĩ quan và Cố vấn trưởng Tiểu Đoàn. Việt cộng có trên 50 chết tại trận. Khi chúng rút lui đã bị lực lượng Mỹ đánh chặn đường, giết 223 và bắt 9 tù binh, tịch thu nhiều súng cá nhân và 1 Đại bác 75 ly đủ bộ.(Trích tài liệu báo cáo của Đại Úy Thomas Campbell ). Đại Úy Ngô Văn Định Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 3 được chỉ định làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 TQLC thay thế cố Trung tá Lê hằng Minh ngày 29/6/1966 tại mặt trận .


Thiếu Tướng Lê Nguyên Khang Tư Lệnh Lữ Đoàn TQLC được thăng cấp Trung tướng ngày 19/6/1966 . Buổi lễ được tổ chức tại Bộ Tổng tham mưu QLVNCH.


Năm 1967 , Tiểu đoàn 5 /TQLC với Th/tá Phạm Nhã làm Tiểu đoàn trưởng, Đ/U Nguyễn xuân Phúc làm Tiểu Đoàn Phó, Các Đaị Đội Trưởng, Đại Đội 1 Trung Úy Hồ Quang Lịch, Đại Đội 2 Trung Úy Cổ Tấn Tịnh Châu ( Châu em ), Đại Đội 3 Trung Úy Đoàn Đức Nghi, Đại Đội 4 Trung Úy Đỗ Hữu Tùng, ĐĐCH Trung Úy Huỳnh Văn Phú.. Tiểu Đoàn tăng phái cho Sư Đoàn 9 Lục Quân Hoa Kỳ, đã chiến thắng trong trận đánh tại Rạch Ruộng ( 3/12/1967 ) vùng ranh giới Định Tường, Kiến Phong làm Tướng Tư lệnh Sư Đoàn 9 /BB Hoa kỳ kính nể Thủy Quân Lục Chiến VN. Chiến thắng của Tìểu Đoàn 5 ở Rạch Ruộng là chiến thắng lớn của TQLC tháng 12 năm 1967. Một số quân nhân đã được trao gắn huy chương Việt Mỹ, Trong đó Thiếu Tá Phạm Nhã và Hạ Sĩ Hiếu được trao gắn Silver Star. Trung Úy Hồ Quang Lịch được đặc cách thăng cấp Đại Úy và được trao gắn Bronze Star của Hoa Kỳ. Hiệu kỳ Tiểu Đoàn 5 và Thiếu Tá Phạm Nhã Tiểu Đoàn Trưởng được tuyên dương công trạng trước Quân Đội.


Năm 1967, trận Đêm Hưu Chiến trên Rạch Cái Thia, Giáo Đức tỉnh Định Tường đêm 31-12- 67 của Tiểu Đoàn 1 Thiếu Tá Phan Văn Thắng TĐT và Tiểu Đoàn 2 Thiếu Tá Ngô Văn Định, Trung Tá Tôn Thất Soạn Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn B chỉ huy tăng phái cho Sư Đoàn 7 Bộ Binh. TĐ1 và TĐ2 đã gây tổn thất nặng cho Tiểu Đoàn 261 và 262 chủ lực miền Việt cộng, khi chúng tấn công vào vị trí Bộ chỉ huy TĐ2 do ĐĐ2 của Đại Uý Đinh Xuân Lãm bảo vệ. Ta tịch thu rất nhiều vũ khí. Đã được triển lãm ở sân cờ Quận lỵ Giáo Đức. Sau trận này Hiệu Kỳ Tiểu Đoàn 2 được tuyên dương công trạng trước Quân đội lần thứ 5.


Năm 1968, trận Tết Mậu Thân, Chiến Đoàn A Thiếu Tá Hoàng Tích Thông và Chiến Đoàn B Trung Tá Tôn Thất Soạn hành quân ở Sài gòn và Huế. Tất cả các Tiểu Đoàn đều lập nhiều thành tích trong trận Mậu Thân. TĐ6 đã đánh tan đơn vị VC xâm nhập vào khu vực Bình hòa, bắt sống nhiều tù binh và thu nhiều vũ khí. Trong suốt thời gian Tết Mậu Thân, TĐ2 được tăng phái cho Biệt Khu Thủ Đô, Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, hoặc Bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn trực tiếp chỉ huy. TĐ2 đã tiêu diệt hầu hết những đỏn vị đã xâm nhập vào những nơi trọng yếu mà TĐ2 trách nhiệm trong Đô Thành như: Trường Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu, Cầu chữ Y, hãng rượu Bình Tây, Quận 6, Đài Phát thanh Sài Gòn, Chùa Ấn Quang, Đường Khổng Tử Chợ Lớn, Trường đua Phú Thọ. Chận đứng và tiêu diệt các đơn vị vào Sài Gòn theo ngả Mũi tàu Phú Lâm, Cầu Kinh Thị Nghè và cầu Xa lộ. TĐ được tuyên dương công trạng trước Quân Đội lần thứ 6. Thiếu Tá Ngô Văn Định được thăng cấp Trung Tá ngày 19-6-68. Tr/tướng Lê nguyên Khang đã gắn huy chương cho hiệu kỳ TĐ2/TQLC và cho Tr/tá Tiểu đoàn trưởng Ngô văn Định tại sân cờ của Bộ Tư Lệnh ngày 1 tháng 10 năm 1968. Tiểu Đoàn 2 là đơn vị đầu tiên trong Sư Đoàn được mang giây biểu chương mầu Bảo Quốc Huân Chương.


Ngày 1 tháng 10 năm 1968, Lữ Đoàn TQLC đổi danh hiệu là Sư Đoàn TQLC. Gồm Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, 2 Lữ Đoàn A và B và các đơn vị yểm trợ. Trung Tướng Lê Nguyên Khang Tư Lệnh . Đ/t á Nguyễn thành Yên, Tư lịnh phó , Đ/tá Bùi thế Lân, Tham mưu trưởng .


Trận chiến từ Cầu khởi đến Bời Lời của Tiểu Đoàn 2 TQLC từ ngày 14 đến ngày 19 tháng 9 năm 68 với thành phần sỉ quan : Tr/tá Ngô văn Định , Tiểu đoàn trưởng . Th/tá Nguyễn kim Để , Tiểu đoàn phó. Đ/U Đinh xuân Lãm , Trưởng ban 3. Các Đại đội trưởng : Đ/U Tô văn Cấp, Đ/U Trần kim Đệ, Đ/U Trần văn Thương và Đ/U Vũ đoàn Dzoan. TĐ2 đã loại ra khỏi chiến trường Tiểu Đoàn 14D chủ lực tỉnh Tây Ninh và Trung Đoàn 33 chính quy Bắc Việt . Hiệu kỳ của Tiểu đoàn 2 được tuyên dương công trạng trước Quân đội lần thứ 7.


Ngày 28 tháng 12 năm 68, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Trung Tướng Lê Nguyên Khang Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC và phái đoàn chính phủ đã đến thăm anh em Tiểu Đoàn 2 tại Hậu cứ Thủ Đức.


Tháng 5 năm 70, Lữ Đoàn 258 do Đại Tá Tôn Thất Soạn chỉ huy là Lữ Đoàn đầu tiên hành quân vượt biên sang Cam Bốt, Trong cuộc hành quân này Đại Tá Tôn Thất Soạn đã được Tư Lệnh Quân Đoàn 4 đề nghị điều chỉnh đặc cách tại mặt trận cấp bực Đại Tá thực thụ kề từ ngày 1 tháng 7 năm 1970. Đại Tá Soạn bàn giao Lữ Đoàn 258 cho Trung Tá Nguyễn Thành Trí Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 tháng 6 năm 70..Sau đó các Lữ Đoàn 147, Trung Tá Hoàng Tích Thông và Lữ Đoàn 369, Trung Tá Ngô Văn Định chỉ huy cũng lần lượt hành quân tại Cam Bốt đặt thuộc quyền chỉ huy trực tiếp của Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.


Tháng 7 năm 1970, Lữ Đoàn 369 hành quân giải tỏa áp lực địch trên quộc lộ 4 từ Nam Vang đi hải cảng Sihanouk Ville, Tiểu Đoàn 8 Thiếu Tá Nguyễn Văn Phán và Tiểu Đoàn 9 Thiếu Tá Nguyễn Kim Đễ đã hoàn thành nhiệm vụ sau những cuộc chạm súng ác liệt trên vùng đồi núi 2 bên quốc lộ. TĐ8 và TĐ9 thuộc Lữ Đoàn 369 đã được nhiều huy chương trong trận này. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Quân Đoàn 4 cũng đến thăm Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn tại địa điểm hành quân và khen ngợi các Tiểu Đoàn Trưởng. Đại Tá Bùi Thế Lân Tư Lệnh Phó Sư Đoàn cũng đến Neak Luong thăm các đơn vị. Trung Tá Ngô Văn Định Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 đã hướng dẫn Đại Tá Tư Lệnh Phó đến thăm anh em thương bệnh binh tại bệnh viện Neak Luong, sau đó đi thăm TĐ8 và TĐ9 tại măt trận. Trong dịp này Đại Tá Tư Lệnh Phó có trao gắn một số huy chương cho anh em TĐ8 và TĐ9.


Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên Thiếu Tá Nguyễn Xuân Phúc Tiểu Đoàn Trưởng, thời gian này trực thuộc Lữ Đoàn 147 ( Trung Tá Hoàng Tích Thông Lữ Đoàn Trưởng ) đã đánh bại 1 Trung Đoàn Cộng Sản ở Preyveng Cam Bốt, Tiểu Đoàn đuợc tuyên dương công trạng trước Quân Đội lần thứ 8 và được mang giây biểu chương mầu Tam Hợp. Trung Tá Ngô Văn Định bàn giao Lữ Đoàn 369 cho Trung Tá Phạm Văn Chung tháng 12 năm 1970.


Từ ngày thành lập cho đến năm 1970 Quân Kỳ Sư Đoàn TQLC được tuyên dương công trạng trước Quân Đội 5 lần. Do công trạng của nhiều Tiểu Đoàn trong các cuộc hành quân riêng biệt, hoặc dưới sự chỉ huy trực tiếp của các Chiến Đoàn TQLC.


Đầu năm 1971, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn tham dự hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào. Đây là lần đầu tiên Sư Đoàn TQLC trực tiếp chỉ huy 3 Lữ Đoàn TQLC tham dự hành quân, Đại Tá Bùi Thế Lân Tư Lệnh Phó chỉ huy. LĐ 147 Đại Tá Hoàng Tích Thông, LĐ 258 Trung Tá Nguyễn Thành Trí, LĐ 369 Trung Tá Phạm Văn Chung.


Trong cuộc hành quân này Thủy Quân Lục Chiến là Sư Đoàn ít bị tổn thất nhất. Sau cuộc hành quân này, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã trao gắn Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu cho Quân Kỳ Sư Đoàn lần thứ 6. Sư Đoàn được mang giây biểu chương mầu Bảo Quốc Huân Chương.


Sau hành quân Lam sơn 719 năm 71, Đại Tá Hoàng Tích Thông bàn giao Lữ Đoàn 147 cho Trung Tá Nguyễn Năng Bảo.


Tháng 7 năm 71, Trung Tá Nguyễn Thành Trí đi học khoá Command and Staff College ở Quantico, Virginia Hoa Kỳ, bàn giao Lữ Đoàn 258 cho Trung Tá Ngô Văn Định. Khi trở về nước được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Đoàn giữa năm 1972. Đại Tá Trí là một trong số những Sĩ quan có nhiều huy chương Việt Nam, và có thể là người có nhiều huy chương Hoa Kỳ nhất trong Sư Đoàn, 1 Bronze Star With “V”, 1 Navy Commendation With “V” và 3 Silver Star With “ V “ về những công trận thời ông làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1. ( Dữ kiện do Đại Tá Trí cung cấp ).


Đầu tháng 10 năm 1971, Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Phạm Văn Chung Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 tăng phái cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh và tham dự cuộc Hành quân Lam Sơn 810 được trao phó nhiệm vụ tái chiếm một căn cứ của Hoa Kỳ có tên là “Động Cù Mông “. Căn cứ này đã buộc phải triệt thoái sau khi bị Cộng sàn Bắc Việt tràn ngập. Tiểu Đoàn 9 đã phải chiến đấu rất gay go để chiếm lại căn cứ, cùng thu hồi được gấn 100 thi hài cho quân bạn ( Việt và Mỹ) .Sau cuộc Hành quân Lam Sơn 810, Thiếu tá Nguyễn Kim Đễ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 9 TQLC đã được ân thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm theo Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu. Tuy nhiên anh vẫn là người chưa có được một huy chương nào của Hoa Kỳ ( Dữ kiện do Trung Tá Đễ cung cấp) Cưộc Hành quân Lam Sơn 810 chấm dứt Trung Tá Phạm Văn Chung Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 được thăng cấp Đại Tá.


Trong trận chiến mùa hè đầu tháng 4 năm 72, Lữ Đoàn 258 cũng lập 1 chiến công lớn trong dịp lễ Phục Sinh 72. Trận đánh với bộ binh và chiến xa Bắc Việt ở Pedro và Ái Tử của Lữ Đoàn 258 từ ngày 9 đến 12 tháng 4 năm 72. Đây là trận đánh lần đầu tiên với quân Bắc Việt có chiến xa trên chiến trường Quân Khu 1. Trung Đoàn bộ binh Bắc Việt bị TĐ1,TĐ3,TĐ6 và TĐ3 Pháo Binh gây tổn thất nặng, Trung Đoàn chiến xa bị bắn cháy và bị mìn không chiếc nào thoát. Thiếu Tá Đỗ Hữu Tùng Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 được thăng cấp Trung Tá. Trung Tá Ngô Văn Định Lữ Đoàn Trưởng 258 được thăng cấp Đại Tá kể từ ngày 9 tháng 4 năm 1972.


Riêng mặt trận ở cầu Đông Hà kể từ ngày 1 tháng 4 đến 8 tháng 4 năm 72, Tiểu Đoàn 3 TQLC Thiếu Tá Lê Bá Bình Tiểu Đoàn Trưởng, Th/tá Trần Kim Đệ Tiểu Đoàn phó, Trường ban 3 Đại Úy Trần Công Bằng, Đại Đội Trưởng ĐĐCH Trung Úy Nguyễn Văn Hào, ĐĐ1 Trung Úy Nguyễn Kim Chung, ĐĐ2 Đại Úy Giang Văn Nhân, ĐĐ3 Đại Úy Lê Qúy Bình, ĐĐ4 Trung úy Nguyễn Văn Dương và anh em Sói Biển đã chận đứng được đơn vị Bắc Việt cấp Sư Đoàn có chiến xa tiến về hướng cầu Đông Hà, bắn cháy nhiều chiến xa, gây thiệt hại nặng cho các đơn vị bộ binh. Sau trận này Thiếu Tá Lê Bá Bình được đặc cách thăng cấp Trung Tá. Trung Tá Lê Bá Bình còn được Tổng Thống Hoa Kỳ ân thưởng huy chương Silver Star trong trận này và đã được cựu Đại Tướng TQLC Hoa Kỳ Boomer, Walter E.,( Cựu Thiếu Tá Cố vấn Tiểu Đoàn 4 năm 1971 tại căn cứ Sarge ) trao gắn ngày Đại Hội TQLC Việt Nam 2003 tại Washington D.C.


Được Đệ Tứ Đẳng BQHC thời gian TĐ3 hoạt động ở Ái Từ.( Dữ kiện do Trung Tá Lê Bá Bình cung cấp).


Ngày 3 tháng 5-1972, Trung Tướng Lê Nguyên Khang bàn giao chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC cho Đại Tá Bùi Thế Lân Tư lệnh Phó. Trung Tướng Khang về Bộ Tổng Tham Mưu giữ chức vụ Tham Mưu Phó Hành Quân.


Đầu tháng 5 năm 72, trân đánh ở tuyến Sông Mỹ Chánh 15 cây số Nam Hải Lăng. Lữ Đoàn 369 do Đại Tá Phạm Văn Chung chỉ huy các Tiểu Đoàn 2 Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Tiểu Đoàn 5 Thiếu Tá Hồ Quang Lịch và Tiểu Đoàn 9 Thiếu Tá Nguyễn Kim Đễ đã giữ vững tuyến Mỹ Chánh và ngăn chặn được lực lượng hùng hậu của Địch gồm Bộ Binh và chiến xa có ý định tiến thẳng về Huế. Thiếu Tá Nguyễn Kim Đễ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 9 được thăng cấp đặc cách Trung Tá Thực Thụ trong trận này và được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gắn cấp bậc Trung Tá cùng 1 lần với nhiều Sĩ quan khác tại Huế. Trong đó có Đại Tá Bùi Thế Lân Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến được thăng cấp Chuẩn Tướng.


Sau khi Lữ Đoàn 369 chặn đứng và đánh tan các đơn vị Việt Cộng có ý định vượt tuyến Mỹ Chánh để tiến thẳng về phía Nam. Tháng 5 năm 72, Đại Tá Phạm Văn Chung bàn giao Lữ Đoàn 369 cho Trung Tá Nguyễn Thế Lương, Đại Tá Chung thuyên chuyển về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Hành Quân Sư Đoàn. Ít lâu sau anh được biệt phái đi làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Quảng Nam. Đại Tá Phạm Văn Chung đã chỉ huy hành quân, đem lại an ninh hoàn toàn cho khu vực Cẩm Thanh, gần quận Hiếu Nhơn. Anh được Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Quân Đoàn 1 Quân Khu 1 đề nghị ân thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm theo Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu tháng 9 năm 1973.( Dữ kiện Đại Tá Chung cung cấp )


Các vùng B.52 oanh tạc yểm trợ tái chiếm Quảng Trị

Ngày 28 tháng 6 năm 72, Hành quân tái chiếm Quảng Trị bắt đầu. Cuộc hành quân này là cuộc hành quân lần thứ 2 ở cấp bộ Sư Đoàn do Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến trực tiếp chỉ huy gồm LĐ 147, 258 và 369 TQLC.

Ngày 11 tháng 7, Chuẩn Tướng Tư Lệnh quyết định xử dụng Tiểu đoàn 1 TQLC trực thăng vận vào vùng Thôn Bích La Nam, Triệu Phong, đông bắc thị xã Quảng Trị chừng 2 cây số. Đây là một vị trí quan trọng, nếu chiếm được sẽ làm dễ dàng hơn cho việc tấn công Quảng Trị.Cuộc đổ bộ trong lòng địch là một cuộc hành quân đầy cam go và thử thách , nhưng những Cọp biển đã đạt được mục tiêu.


Cuộc hành quân sử dụng 32 chiếc trực thăng đủ loại, 17 chiếc loại CH53 mới nhất của Quân Đội Hoa Kỳ (1972) chở được 60 người, 15 chiếc Chinook CH 46 chở 20 người. Tất cả đều được dùng để di chuyển toàn bộ Tiểu đoàn đến mục tiêu. Khi tới bãi đáp một trực thăng đã bị hỏa tiễn SA7 bằn trúng nổ tung, đa số TQLC trên máy bay đều tử nạn. Trong số 32 chiếc trục thăng sử dụng thì đã có đến 29 chiếc bị trúng đạn phòng không, 1 nổ tung ở bãi đáp, 2 chiếc bị rớt (1 rớt xuống biển). Tiểu đoàn 1 TQLC do Thiếu Tá Nguyễn Đăng Hoà chỉ huy đã bị tổn thất nặng, gần 200 người bị tử thương và bị thương. Tiểu đoàn phải đương đầu với lực lượng hùng hậu của đối phương có nhiều chiến xa nhưng vẫn cố thủ được vị trí và chống trả được những cuộc tấn công của quân Bắc Việt.


Trâu Điên bắt tay với Quái Điểu ngày 14 tháng 7 năm 72.

Ngay sau khi Tiểu Đoàn 1 TQLC nhẩy xuống quận Triệu Phong tỉnh Quảng Trị vào ngày 11 tháng 7 năm 1972 thì lệnh của Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC là trong 48 tiếng đồng hồ TĐ2 TQLC phải tiến quân thần tốc bằng mọi giá để bắt tay với TĐ1 TQLC đang bị địch bao vây chia cắt cố tiêu diệt hay bắt sống toàn bộ Tiểu đoàn Kinh Kha này bên bờ sông Vĩnh Định.

Nhìn vào bản đồ với các mục tiêu Địch trải dài trên 40 cây số chốt dầy đặc dọc theo hương lộ 555 từ Thừa Thiên hướng về Quảng trị, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn Trâu Điên Trần Văn Hợp cau mày rồi nhìn tôi và Sĩ Quan ban 3 như chia sẻ một quyết định táo bạo và thần kỳ sắp được bắt đầu. Cánh phó dưới sự chỉ huy của Đại úy Phạm văn Tiền gồm các ĐĐ1 của Đại Úy Lâm Tài Thạnh, ĐĐ2 của Đại Úy Từ Đức Thọ, ĐĐ4 của Đại Úy Lê Quang Liễn và ĐĐ5 của Trung Úy Huỳnh văn Trọn đã liên tục thay nhau ủi bãi và lật tung tất cả chốt địch để tiến về Quảng Trị, cho đến sáng ngày 13 tháng 7 thì TĐ2 đã có mặt tại Ngô Xá Đông chỉ còn cách Bích La Nam 12 cây số nơi tử thủ của TĐ1 TQLC. Khi TĐ2 đang tạm dừng quân để lo tăng cường ẩm thực cho các Đại Đội bằng thịt bò hoang thì bất chợt viên Trung Úy Hải Pháo từ trên ngọn cây xuống chạy vào báo cáo là ông ta đã phát giác được sự di chuyển chạy trốn của địch bằng xe tăng với nhiều cột khói tung cao tại làng Thanh Lê. Thế là mọi người đã bỏ bữa ăn tăng cường để lo diệt chiến xa địch. Sau những đợt oanh kích và pháo kích dữ dội của Không quân Hoa Kỳ và Pháo binh 105 ly của TQLC, các ĐĐ5 và 4 là nỗ lực chính đánh vào làng Thanh lê, nơi đặt sở chỉ huy của Trung Đoàn 202 xe tăng địch. Mặc dù bị thiệt hại bởi kế hoạch hỏa yểm dữ dội của ta., nhưng chiến xa địch vẫn ngoan cố dàn hàng ngang nấp sẵn trong bụi cây chờ. Được sự yểm trợ hữu hiệu của chi đoàn 3/18 thiết vận xa dưới quyền chỉ huy của Đại Úy "Minh Đen" hay còn gọi là "Minh Hạm Đội" các con Trâu Điên đã nhanh chóng tràn qua từng thửa ruộng và khi đến gần bìa làng Thanh Lê thì xe tăng Địch nhào ra khai hỏa tối đa vào đoàn quân Cọp Biển. Đã có những hy sinh ban đầu nhưng sau đó các con Trâu Điên thuộc ĐĐ4 và 5 đã bám được bờ ruộng sâu để thi nhau thổi những hỏa tiễn 66 ly M72 vào chiến xa Địch cộng thêm hỏa lực chính xác của Đại bác không giật 106 ly đặt trên những thiết vận xa M113 đã khiến xe tăng địch thi nhau bốc cháy với xác địch cháy thê thảm. Quân ta đã hoàn toàn làm chủ tình thế và chiếm được mục tiêu với 18 xe tăng T54, PT 76. PTR85, PTR65 bị bắn cháy và 7 xe tăng T59 chỉ huy, T54 bị bắt sống nguyên vẹn (Với chiến thắng vẻ vang này. TĐ2 đã đoạt giải nhất Quân Khu 1 cùa Tồng Thống VNCH.) Chiều ngày 13 thì TĐ2 đã tiến đến làng Tả Hữu sát khu vực cầu Ba Bến và bên này sông Vĩnh Định để bắt tay với TĐ1 bên kia sông đề lo việc tải thương. Việc tải thương trong đêm tối khá vất vả vì trực thăng không đến được và lại thiếu phương tiện di chuyển mặc dù Trâu Điên đã phải huy động xe jeep lùn của Tiểu khu Quãng Trị và Sư Đoàn 3 BB bỏ lại để di tản gần 200 tử sĩ và thương binh của Quái Điểu trong khi ”Con Bò Sữa” M541 của Thiết quân vận chuyên chở không xuể. Trong khi lo tải thương Người viết bài này đã phải cãi lộn với Cố Vấn Mỹ Donavan khi hắn ta cứ nằng nặc đòi chở 4 xác phi hành đoàn Mỹ trước trong khi nhiều thương binh TQLC Việt Nam cần phải di tản trước. Sau một dêm đầy vất vả lo tải thương cho Quái Điểu bằng xuồng nhôm của Công Binh kéo tay bằng dây thừng qua lại hai bên bờ sông Vĩnh Định, sang ngày 14 tháng 7 năm 72 Trâu Điên đã vượt sông Vĩnh Định tại khu vực Bích La Trung để bắt tay với Quái Điểu tại Bích La Nam trong từng đợt mưa pháo của Địch và chính thức hoán đổi vị trí đóng quân cho TĐ1 ngày hôm đó.


Tuy mệt mỏi nhưng khi thấy Bác sĩ kiêm ca sĩ Trung Chỉnh từ hầm hố bước lên miệng cười hớn hở tiến đến bắt tay, lòng tôi cảm thấy bâng khuâng khó tả. Đặc biệt là khi được ông niên trưởng khoá 21 Bùi Bồn Đại Đội Trưởng ĐĐ1 Quái Điểu tâm sự là "nếu tụi mi đến chậm vài ngày là tao …" bởi vì theo kế hoạch hành quân 2 của Bộ chỉ huy Quái Điểu đã đưa ra là nếu bị địch điên cuồng phản kích bao vây tiêu diệt thì Đại Đội Trưởng ĐĐ1 Bùi Bồn sẽ phải mở đường máu băng qua sông Vĩnh Định lui quân về hướng Đông để bắt tay với Trâu Điên là đơn vị bạn gần nhất. Nhưng rất may là trường hợp đó đã không xẩy ra và Quái Điểu đã được Trâu Điên hoán đổi an toàn ra phía sau nghỉ ( Phần này do Trần Văn Loan Trâu Điên viết )


Mặt trận Quảng Trị quân Bắc Việt vượt vĩ tuyến 17 gồm 4 Sư Đoàn 304, 308, 312 và 325A. 4 Trung Đoàn Biệt lập gồm 126 Đặc công, 31, 246, 270 thuộc mặt trận B5 cùng với 2 Trung Đoàn CX 203 và 204 khoảng 200 chiếc. Được yểm trợ bởi 2 Trung Đoàn Pháo binh 38, 68 và Trung Đoàn 84 hỏa tiễn địa không.


Cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị được Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh Sư Đoàn giao trách nhiệm cho Lữ Đoàn 258, Đại Tá Ngô Văn Định Lữ Đoàn Trưởng, Trung Tá Đỗ Đình Vượng Lữ Đoàn Phó gồm có TĐ1 Thiếu Tá Nguyễn Đăng Hòa, TĐ2 Thiếu Tá Trần Văn Hợp, TĐ5 Thiếu Tá Hồ Quang Lịch, TĐ6 Trung Tá Đỗ Hữu Tùng, TĐ9 Trung Tá Nguyễn Kim Đễ, TĐ1 Pháo Binh 105 ly TQLC Thiếu Tá Đoàn Trọng Cảo và Lữ Đoàn 147, Đại Tá Nguyễn Năng Bảo Lữ Đoàn Trưởng, Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc Lữ Đoàn Phó gồm có TĐ3 Thiếu Tá Nguyễn Văn Cảnh, TĐ7 Thiếu Tá Nguyễn Văn Kim, TĐ8 Thiếu Tá Nguyễn Văn Phán,.TĐ2 Pháo Binh 105 ly TQLC Thiếu Tá Đặng Bá Đạt. Lữ Đoàn 369, Đại Tá Nguyễn Thế Lương Lữ Đoàn Trưởng, Trung Tá Đoàn Thức Tham Mưu Trưởng và một Tiểu Đoàn ( có thể là TĐ4 ) làm trừ bị cho Sư Đoàn. Từ ngày TQLC được nâng lên cấp Sư Đoàn 1-10-68 cho đến ngày 30-4-75 thì TQLC chỉ có 2 cuộc hành quân quan trọng do Sư Đoàn TQLC trực tiếp chỉ huy là Lam Sơn 719, Đại Tá Bùi Thế Lân Tư Lệnh Phó chỉ huy.


Trận dứt điểm Cổ thành Quảng Trị, Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh Sư Đoàn chỉ huy. Tái chiếm đưọc Cổ Thành Đinh Công Tráng ngày 16-9-1972 sau 7 tuần kể từ ngày 27-7 thay thế Sư Đoàn Nhẩy Dù. Sư Đoàn bị tổn thất nhiều vì TQLC ở tư thế tấn công. Lực lượng Địch phòng thủ lại hơn ta khoảng 4 lần, có môt hậu phương hùng hậu rất gần để tiếp tế và tăng viện khi cần. Khác với những chiến thắng của QLVNCH ở những vùng khác ta ở thế phòng thủ. Cuôc tái chiếm Quảng Trị được coi là quan trong nhất về yếu tố quân sự và chính trị thời gian đó. Hòa đàm Ba Lê, Việt Nam hóa chiến tranh. Chiến thắng này gay go và nhiều tổn thất nhất về sinh mạng cho cả 2 bên. Kể tử tháng 5-72 cho dến ngày 16-9-72 TQLC có trên 3500 quân nhân tử trận và nhiều ngàn người bị thương. Các đơn vị Bắc Việt bị tổn thất hơn một nửa quân số. Trung Đoàn 203 và 204 chiến xa thì coi như bị tiêu diệt gần hết. Một cuộc chiến kinh hoàng, TQLC đã chiến thắng oanh liệt nhất trong cuộc chiến VN. Ngày 20 tháng 9 Tổng Thống và Phái đoàn chính phủ đã đến thăm .Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh đã hướng dẫn Tổng Thống, Đại Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Quân Đoàn 1 thăm TQLC tại Quảng Trị, thăm Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn 6 và đi bộ một vòng thị xã đổ nát. Trong lúc đại bác 130 ly vẫn thỉnh thoảng còn rớt xuống thị xã. Tổng Thống VNCH gửi điện văn khen ngợi các chiến sĩ TQLC đã chiếm xong Cổ Thành Quảng Trị ( Điện văn đính kèm ) Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ân thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm theo Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu.


Nhận được tin các chiến sĩ TQLC đã hoàn toàn kiểm soát Thị Xã Quảng Trị và quét sạch tên Cộng Sản Bắc Việt cuối cùng ra khỏi Cổ Thành Đinh Công Tráng vào lúc 17 giờ ngày 15-9, ngày 16-9 Tổng Thống VNCH đã gửi cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH một công điện nguyên văn như sau ( Nguyên văn đính kèm )


Tôi trận trọng yêu cầu Đại Tướng chuyển đến Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 1, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC cùng toàn thể đơn vị và chiến sĩ TQLC đã đánh tan quân Cộng Sản xâm lược ra khỏi Thị Xã và Cổ Thành Quảng Trị, lời ngợi khen nồng nhiệt nhất, đồng thời lòng khâm phục vô biên của Tôi và toàn thể chánh phủ họp tại dinh Độc Lập sáng hôm nay 16-9-72

Bốn ngày trước khi đúc kết chiến dịch 3 tháng thừa thắng xông lên tái chiếm lãnh thổ và sau những tuần lễ đầy hy sinh gian khổ, toàn thể các đơn vị thuộc mọi Quân binh chủng vùng địa đầu giới tuyến đã ghi thêm những nét vàng son sáng chói vào Quân Sử hào hùng của Dân Tộc

Mưu đồ của bọn Cộng Sản xâm lược muốn biến Quảng Trị thành một Bình Long anh dũng, một Kontum kiêu hủng của chúng, đồng thời bám lấy một địa danh tâm lý và chánh trị để lừa bịp dư luận đã bị toàn thể anh em đánh tan ra mây khói.
Một lần nữa Tôi nhiệt liệt khen ngợi toàn thể anh em đã chiến thắng, Tôi kính cẩn ngiêng mình trước những chiến sĩ hy sinh cho đại nghiã dân tộc,

Và Tôi sẽ đến thăm anh em

Ký Tên

Tổng Thống VNCH : NGUYỄN VĂN THIỆU

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Quân Đoàn 1 Quân Khu 1 gửi điện thư đến Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC ( Nguyên văn đính kèm )

Gửi Chuẩn Tướng

Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến

Tôi đã nhìn Quốc Kỳ tung bay trên nền trời Quảng Trị chỉ ít lâu sau khi những bàn tay kiêu dũng của anh em kéo lên từ trong Cổ Thành hôm 16-9-72
Tôi đã muốn thấy tại chỗ chiến thắng của anh em để ngay tại chiến trường, tự cảm thấy hãnh diện được chỉ huy Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến trong một chiến dịch quy mô nhất của Quân Đội.

Từ Bến Hải đến Cà Mâu, gót chân người chiến sĩ TQLC đã trải qua bao nhiêu thử thách, gian khổ và chiến thắng. Nhưng phải nói rằng đây là lần đầu tiên Sư Đoàn đã chiến đấu trong một hoàn cảnh đặc biệt, đối đầu với nhiểu khó khăn nhất, với một kẻ thù đông gấp bội.Vì thế chiến thắng Quảng Trị, đánh tan quân Địch, giải phóng thị xã, là chiến thắng lớn nhất lẫy lừng nhất.

Đẩu tháng 5 năm 72, khi Quảng Trị bị mất vào tay Địch, Sư Đoàn đã trấn giữ được tuyến Mỹ Chánh và đã góp công đầu, cùng với các đơn vị của Sư Đoàn Nhẩy Dù và Sư Đoản 1 Bộ Binh trong nhiệm vụ giữ Huế.. Hàng trăm ngàn dân Trị Thiên đã phải di tản về Nam trước áp lực của Địch, nhưng tại tuyến Mỹ Chánh anh em đã ngăn được sức tiến của quân thù.

Những cuộc tấn kích hạn chế, sau đó đã được tổ chức trong vùng Hải Lăng để dành lại thế chủ động và lũng đoạn các kế hoạch tiếp tục tiến công của giặc. Sóng Thấn 5 ngày 13 tháng 5 tại Hải Lăng và Đa Nghi. Sóng Thần 6 ngày 24 tháng 5 tại Mỹ Thủy, Sóng Thần 8 vượt tuyến Mỹ Chánh ngày 8 tháng 6 đã đánh vào đầu Địch những đòn nặng, tai hại cho kế hoạch tấn công của Địch, và đã chuẩn bị cho cuộc phản công của quân ta ngày 28-6-1972 là ngày chiến dịch Lam Sơn 72 bắt đầu.
Thủy Quân Lục Chiến và Nhẩy Dù đã gây được một bất ngờ kỳ thú ngay cho cả Địch quân cùng với các Quân binh chủng khác và với một tỷ lệ quân số bạn địch 1/4, anh em đã đẩy lui được địch, tiêu diệt một phần lớn tiềm năng chiến đấu của chúng
Và trận chiến gay go nhất đã khởi diễn từ 27-7-72 khi Sư Đoàn tiếp nhận khu vực Thị xã Quảng Trị từ Sư Đoàn Nhẩy Dù. Chiến sĩ TQLC sau 51 ngày tiến chiếm từng tấc đất, từng ngôi nhà, đã dành lại được toàn bộ Thị Xã Quảng Trị, diệt được trên 14 ngàn tên Địch, thu 4350 vũ khí, hủy hay thu 71 khẩu pháo, 73 chiến xa tính từ đầu tháng 5 năm 72.

Giặc đã dùng lực lượng của 4 Sư Đoàn chủ lực để giữ Thị Xã Quảng Trị, những Sư Đoản đã lừng danh với những chiến thắng ở Bắc, Trung Việt và nhất là ở Điện Biên Phủ 304 ,308, 312, 325. Sư Đoàn TQLC đã đương đầu với chúng, nhẫn nại hơn chúng, dũng cảm hơn chúng và đã chiến thắng chúng, những “ anh hùng Điện Biên Phủ một thời”.

Chiến thắng ấy đã được xây dựng với nhiều xương máu của chiến sĩ, với sức chịu đựng vượt mức của anh em. Nhờ sự khéo léo và tài ba của Chuẩn Tướng và các Sĩ Quan.

Tôi muốn qua thư này tỏ lòng khâm phục của tôi đối với Sư Đoàn TQLC, với những hy sinh vô bờ của anh em, và lập lại sự hãnh diện được chỉ huy anh em trong một cuộc thử thách lớn nhất, trong một chiến dịch quy mô nhất của Quân Đội
Tôi cũng yêu cầu Chuẩn Tướng chuyển lời khen ngợi của tôi đến tất cả Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ của Sư Đoàn

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng

Tư Lệnh Quân Đoàn 1 Quân Khu 1

( Ký Tên )


Sư Đoàn cũng nhận được nhiều điện văn của Tư lệnh các Đại đơn vị TQLC Hoa Kỳ ca ngợi chiến thắng Quảng Trị. Tổng Thống Hoa Kỳ cũng ân thưởng huy chương Legion of Merit class Commander cho Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân. Thiếu Tướng John E. Murray chỉ huy cơ quan Defense Attache’s Office (D.A.O) trao gắn huy chương cho Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Hành quân Hương Điền cuối năm 1974.( Xem hình ) Đây là một huy chương cao qúy của nước Mỹ chỉ dành để trao tặng cho những nhân vật ngoại quốc có thành tích và thuộc những nước đồng minh thân thiện với Hoa Kỳ. Về phiá Cố vấn Mỹ ở Quân Đoàn cho biết thì đây là lần đầu tiên huy chương đẳng cấp này (Legion Of Merit Commander) được trao tặng cho một Sĩ Quan cấp Tướng Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến.

( Ghi chú : Legion of Merit của Hoa Kỳ có 4 đẳng cấp theo thứ tự tứ thấp lên cao : Legion of Merit Legionnaire.

Legion of Merit Officer.


Legion of Merit Commander.


Legion of Merit Chief Commander.( it is the highest degree of the LEGION OF MERIT.)


Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng ân thưởng nhiều huy chương cho quân nhân các cấp trong Sư Đoàn.


Đại Tá Nguyễn Năng Bảo và Đại Tá Ngô Văn Định cũng được ân thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm theo Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu trong chiến thắng Quảng Trị.


Quân Kỳ Sư Đoàn được tuyên dương công trạng trước Quân Đội lần thứ 7 sau khi tái chiếm Cổ thành và thị xã Quảng Tri, lần thứ 8 và được mang giây biểu chương mầu Tam hợp sau khi giữ vững tuyến Quảng trị năm 73 và 74. Tổng Thống Thiệu trao gắn cho Quân Kỳ Sư Đoàn tại Huế trong môt cuộc diễn hành của các đơn vị thuộc Quân Khu 1 tại Huế. Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân chỉ huy tổng quát cuộc diễn hành. Đại Tá Ngô Văn Định Lữ Đoàn Trưởng 258 chỉ huy thành phần TQLC tham dự.

Chiến thắng Quảng Trị đã được Thiếu Tướng Howard H.Cooksey Cố Vấn Trưởng Vùng 1 (FRAC) đề nghị huy chương của Tổng Thống HK cho cả SĐ/TQLC/VN

Tất cả 9 Tiểu Đoàn tác chiến, 3 Tiểu Đoàn pháo binh, Tiểu Đoàn công binh, Tiểu Đoàn quân y và yểm trợ đều lập nhiều thành tích đáng kể trong năm 72. Trong cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị tuy Sư Đoàn bị tổn thất rất nhiều nhưng TQLC vẫn là đơn vị có Quân số tham chiến cao nhất trong QLVNCH.


Trận Cửa Việt xảy ra sau khi tái chiếm được Cổ Thành Quảng Trị, quân đội Việt Nam Cộng Hòa cố gắng giành lại Đông Hà và Cửa Việt. Phía bên kia, quân Bắc Việt mặc dầu thiệt hại nặng nề nhưng vẫn chống trả dưới sự yểm trợ dử dội của các giàn pháo binh 130 ly. Trong một nổ lực cuối cùng để chiếm mục tiêu chiến lược quan trọng là Cửa Việt, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến thành lập một lực lượng đặc nhiệm mang tên Tango. Lực lượng này do Đại Tá Nguyễn Thành Trí, tư lệnh phó sư đoàn, trực tiếp chỉ huy gồm có Tiểu Đoàn 2 và 4 TQLC, tăng cường một đại đội của Tiểu Đoàn 5 TQLC và 3 đại đội của Tiểu Đoàn 9 TQLC. Thiết Đoàn 20 Chiến Xa và được ba tiểu đoàn pháo binh TQLC cùng pháo hạm của Hạm Đội 7 Mỹ yểm trợ đã đánh vào khu vực Long Quang, Bồ Xuyên và tiến dọc theo bờ biển về hướng Thanh Hội, Gia Đẳng, Cửa Việt. Mục tiêu chính của Việt Nam Cộng Hòa là tái chiếm lại căn cứ Hải Quân ở cửa sông Miếu Giang đổ ra biển Nam Hải, cách tuyến đầu của Thủy Quân Lục Chiến khoảng 12 km và cắm cờ VNCH ngay trước giờ ngưng bắn. Khác với chiến dịch tái chiếm tỉnh Quảng Trị và đặc biệt là Thành Cổ Quảng Trị đẫm máu và lâu dài, cuộc hành quân này được thiết kế áp dụng lối đánh thần tốc để chiếm mục tiêu trong vòng 25 giờ đồng hồ.( Bài viết của tác giả Mê Kông, mặt trận Bắc Hải Vân )


Trận chiến xa M48 tăng phái cho Lữ Đoàn 258 bắn chìm chiếc tầu Quân Vận T-174 của Trung Đoàn 5 Hải Quân Bắc Việt tại biển Mỹ Thủy Quảng Trị ngày 20 tháng 6 năm 74. Tầu xâm nhập vào vùng hoạt động của Lữ Đoàn 258. Tầu chở lương khô và đạn dược.


Tháng 2 năm 1975, trong dịp Tết Ất Mão Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gắn cấp bậc Thiếu Tướng tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh có sự hiện diện của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và Thiếu Tướng Hoàng Văn Lạc.( Th/T Lân cung cấp dữ kiện )


Ngày 29-3-75, toàn bộ Sư Đoàn rút khỏi Vùng 1, về Vũng Tàu để bổ xung và tái trang bị. Lữ Đoàn 468 còn đầy đủ quân số khi rút khỏi Đà Nẵng nên ngày 8- 4 Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn, Tiểu Đoàn 8 Trung Tá Nguyễn Đăng Hoà và Tiểu Đoàn 16 Thiếu Tá Đinh Xuân Lãm được lệnh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn về Sàigòn tăng phái cho Biệt Khu Thủ Đô, để lại Vũng Tầu Tiểu Đoàn 14 của Trung Tá Nguyễn Văn Cảnh. Trên đường về khi đến Bà Rịa, Dinh Độc lập bị ném bom. Lữ Đoàn được lệnh quay về lại Vũng Tàu. Qua ngày hôm sau lại lên đường về Sàigòn. Đoàn xe ngừng ở Biên Hòa Đại Tá Định về Biệt Khu Thủ Đô trình diện Trung Tướng Nguyễn Văn Minh Tư Lệnh. Sau đó lệnh tăng phái cho Biệt Khu Thủ Đô được hủy bỏ. Lữ Đoàn được tăng phái cho Quân Đoàn 3.


Lúc này Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, Lữ Đoàn 258, 147 và 369 còn ở Vũng Tàu. Lữ Đoàn 147 và 369 thì coi như không còn hoạt động ngay được, cần bổ xung và tái trang bị. Lữ Đoàn 258 tương đối còn tham chiến được. Ngày 21 hoặc 22 tháng 4 Lữ Đoàn 258, Đại Tá Nguyễn Năng Bảo và Bộ Tư Lệnh nhẹ của Sư Đoàn do Đại Tá Nguyễn Thành Trí Tư Lệnh Phó chỉ huy về Long Bình., Ngày 24 tháng 4 Tôi được lệnh ra chỉ huy và tái tổ chức Lữ Đoàn 147 thay thế Đại Tá Lương. Chưa làm được công việc gì thì đã đến ngày 30-4. Chấm dứt cuộc đời binh nghiệp sau trận không đánh mà thua.


Cách đây 32 năm cũng vào dịp Lễ Phục Sinh.(9 tháng 4 năm 1972) Có một trân chiến long trời đã xẩy ra giữa Lữ Đoàn 258 TQLC và những đơn vị hùng hậu của quân Bắc Việt tại Ái Tử Quảng Trị. Bắc Việt đã xua một đạo quân gồm nhiều Sư Đoàn bộ binh, pháo binh và chiến xa vượt qua sông Bến Hải để tấn công vào các lực lượng của VNCH ở vùng giới tuyến. Ngày 9 tháng 4 năm 72 một Trung Đoàn bộ binh và 1 Trung Đoàn chiến xa của quân đội Bắc Việt đã tấn công vào vị trí các đơn vị thuộc Lữ Đoàn 258 TQLC ở Phượng Hoàng và Ái Tử. Đây là lần đầu tiên trong cuộc chiến ở Việt Nam, Cộng Sản xử dụng những Trung Đoàn chiến xa T54 và T59 vào cuộc chiến. Trung Đoàn bộ binh Việt Cộng đã bị đánh tan, chỉ có một số ít chạy thoát, riêng Trung Đoàn chiến xa đã bị hoàn toàn tiêu diệt không chiếc nào chạy thoát.


Sáng ngày 12/4 Đại Úy Đoàn Đức Nghi Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 1 cùng 2 Đại Đội với 8 chiến xa M48 và 1 Chi Đoàn M113 dự cuộc phản công. Sau 3 ngày hành quân truy kích tàn quân Việt cộng, ngày 12 khi trở về gần Aí Tử trời đã về chiều, đơn vị của anh đã bị 2 Tiểu Đoàn quân Bắc Việt phục kích. Chúng đã bị anh em Quái Điểu, chiến xa M48, thiết vận xa M113 gây tổn thất nặng về nhân mạng sau vài giờ giao chiến gây cho chúng thiệt hại hơn 200 bị chết ngay tại các hầm hố và giao thông hào tại đây. Nhưng một viên đạn của chúng từ xa đã làm cho anh vĩnh viễn ra đi. Khi nghe anh mất đi qua hệ thống Cố Vấn, tôi chết lặng người trong giây lát khi được báo tin.Vì với anh thì tôi đã biết anh từ ngày anh mới ra trường Sĩ Quan Nha Trang với cấp bực Chuẩn úy, về Đại Đội 4 Tiểu Đoàn 2 TQLC với chức vụ Trung Đội Trưởng, lúc đó Tôi là Đại Đội Trưởng Đại Đội 4 tham dự trận Đầm Dơi 1963. Rồi cùng tôi tham dự trận Phụng Dư 1965.


Đại Úy Lawrence H. Livingston Cố vấn của Anh ngày hôm đó, nay đã là Trung Tướng TQLC Hoa Kỳ, trận này Đại Úy Livingston được chính phủ Hoa Kỳ ân thưởng huy chương NAVY CROSS, còn chiếc chiến xa T59 ta tịch thu được trong trận này, được đem về triển lãm ở tòa Đô Chánh Sài Gòn cho đồng bào xem, sau đó Quân Đội VNCH đã tặng cho Quân Đội Hoa Kỳ, vì trong cuộc chiến Triều Tiên Quân Đội Mỹ muốn có được một chiếc để nghiên cứu nhưng không có cơ hội. Không biết bây giờ chiếc chiến xa đó hiện đang được trưng bầy tại một nơi nào đó trên đất Hoa Kỳ. Còn Anh Nghi, Tổ Quốc cũng Ghi Ơn Anh. Chắc Anh đã gặp lại các cấp chỉ huy và các bạn hữu : Lê Nguyên Khang, Nguyễn Thành Yên, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Ngọc Khôi, Nguyễn ngọc Diệp, Lê Văn Cận, Trần Đăng Túc, Đặng văn Sơ, Lê Hằng Minh, Nguyễn Quốc Chính, Nguyễn tuấn Kiệt , Nguyễn văn Cầu, Nguyễn Xuân Phúc, Trần Văn Hợp, Nguyễn Văn Hay , Nguyễn Hồng và nhiều anh em Tôi không nhớ hết, những người đã cùng phục vụ dưới cờ Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục chiến từ ngày mới thành lập cho đến khi tan hàng 30-4-75


Khi anh làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 1 thì anh Hợp là Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 2. Tháng 5 Năm 1972 Thiếu Tá Trần Văn Hợp là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 thay thế Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc đánh trận tái chiếm Cổ Thành Đinh Công Tráng. Trần Văn Hợp đã qua đời trong khi đi tù Cộng sản sau năm 75.

Năm nay 2004 nhân dịp lễ Phục Sinh, ôn lại những gì đã xẩy ra ngày 9 tháng 4 ba mươi hai năm trước tại địa đầu giới tuyến. Đã có một đơn vị tạo 1 chiến thắng lớn cho Quân Lực VNCH là Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến và Anh.

Quân Bắc Việt hùng hậu, trang bị tối tân xâm lăng vào lãnh thổ VNCH đã bị TQLC đánh bại .


Tôi ghi lại vài hàng để tri ơn và tưởng nhớ đến cố Thiếu Tá Đoàn Đức Nghi và những anh hùng TQLC đã hy sinh trong cuộc chiến vì lý tưởng Tự Do.

Từ trái : ( Th/tá Quách ngọc Lâm (TB4), Th/tá Nguyễn văn Châu (TB2), Tr/tá Đổ đình Vượng ( LĐP & TMT ) , Đ/tá Ngô văn Định , Tr/tá Huỳnh văn Lượm (TB3), Đ/U Mai văn Tấn ( B3 ) , Tr/U Bùi Cang ( TB1 ).

Ghi Chú : Đây chỉ là một số trong nhiều năm tháng không quên của TQLC, nhưng người viết chỉ nhớ được một số ít thôi. Mong các bạn viết tiếp bổ túc. Nếu không mai mốt sẽ quên thì chiến sử sẽ thiếu sót đáng tiếc.

MX NGÔ VĂN ĐỊNH
San José ngày 19-6-2004

Thứ Ba, 26 tháng 7, 2011

Tiểu Đoàn 1 TQLC - Huế, Tôi và Mậu Thân

Tiểu Đoàn 1 TQLC - Huế, Tôi và Mậu Thân

MX Nguyễn Văn Phán

Từ Cai Lậy về thủ đô, nhập ngay vào đánh giải tỏa trại Cổ Loa của Thiết Giáp và Xóm Mới Gia Ðịnh xong xuôi, Quái Ðiểu Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến về nằm dọc đường Ngô Tùng Châu. Mười hai giờ khuya họp Tiểu đoàn, 2 giờ sáng có mặt tại Tân Sơn Nhất, 4 giờ sáng lên máy bay đi, đi đâu không biết. Ðồ khô và tái trang bị không lãnh kịp. Cứ lên phi trường rồi hay. Ðó đây những loạt pháo kích, những loạt đại liên rời rạc, những đốm hỏa châu lũng lẳng trên bầu trời. Tôi để lại đằng sau một Sài Gòn mang nặng bộ mặt chiến tranh. Những chiếc máy bay C.13O khổng lồ nuốt gọn 8OO Quái Ðiểu và đưa chúng tôi lên cao trong đêm tối mịt mùng.


- Ði đâu bây ?


- Nha Trang, tao nghe Nha Trang đang có đánh nặng.


Lượm Ðại đội trưởng Ðại đội 1 (dân Nha Trang) trả lời. Tôn Ðại đội trưởng Ðại đội 2 là dân Ðà Lạt, cãi:


- Ðà Lạt.


Phán Phu Nhân nói:


- Ði đâu cũng được, đổi vùng là khoái rồi.


(Khi vào Quân trường, Phán trình diện: Tui chánh quán làng Phú Nhơn, ở gần Hồ Tịnh Tâm, quận Thành Nội, Huế. Thế là sau đấy, giữa lửa đạn và thịt đổ xương rơi, và qua tiếng thét trong máy truyền tin, cái tên ngụy trang ‘Phu Nhân’ ra đời, nghe thật lạ tai!)


- Máy bay chi bay mãi ri bây ?


Thời tiết thật xấu, và rồi bánh xe phi cơ cũng chạm đất, những cặp mắt đổ dồn ra khung cửa sổ máy bay. Phú Bài ! Cơn gió cắt da, bãi cát trắng trải dài, mưa nặng hột. Thiếu áo lạnh, tất cả đều quấn Poncho đứng nhìn đoàn người gánh gồng xuôi ngược, hấp tấp và lo sợ, một số về Truồi, một số lên Gia Lê, An Cựu.


Phú Bài đó, Tịnh Tâm đó, Cầu Kho đó, Mạ, dì, chị và em mình đó mà không liên lạc được. Tình hình không biết sao, ruột như lửa đốt. Trách nhiệm nặng nề, tôi nằm trằn trọc suy nghĩ thật nhiều để chờ sáng mai. Kỳ niệm thời đi học kéo về trong trí tôi, đẹp quá, nhẹ nhàng quá, vụng dại quá.

Mười giờ sáng, đoàn GMC đưa chúng tôi về Huế. Qua Gia Lê, đồng bào hỗn loạn, nét lo âu hiện rõ trên mặt. Tới An Cựu, dân chúng thưa thớt, nhà hai bên đường đóng kín cửa. Dọc quốc lộ 1 từ Huế về Phú Bài, binh sĩ Nhảy Dù từng toán dìu nhau âm thầm đếm bước. Những cái nhìn như nhắn gửi, như lo sợ giùm chúng tôi. Mạnh, Ðại úy Nhảy Dù, cùng khóa cho tôi biết:

- Huế tang thương và điêu tàn lắm Phán ơi. Thừa (cùng khóa) chết, Phạm Như Ðà Lạt bị thương...


Mạnh khắp người băng bó đang được hai đệ tử dìu đi bộ về phi trường Phú Bài. Mạnh tiếp:


- Phán, mày cẩn thận. Không yểm trợ, không thực phẩm, không tiếp liệu, thời tiết quá xấu. Tụi nó chiếm hết thành phố, Ðại Nội, Gia Hội. Tụi nó chốt rất kỹ, chỉ còn cái lõm nhỏ ở Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 tại Mang Cá.


Sau này được nghe nói: Vì nghe tin tướng Trưởng kẹt nặng nên đại bàng Lê Quang Lưỡng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Nhảy Dù đã xua quân đi bộ từ cây số 17 về Huế để cứu tướng Trưởng. Tôi xin tướng Lưỡng cho tôi được nghiêm mình chào một cách đầy kính phục cho cái tình nghĩa huynh đệ không bút nào tả nỗi này. Ðể đáp trọn tình nghĩa, Lữ đoàn của đại bàng Lưỡng cũng hao hụt nặng nề.


Ðoàn xe dừng lại bên hông Ðại học Văn Khoa, cách con đường là trường Kiểu Mẫu mới xây, đối diện là Ðài phát thanh Huế. Và trước mặt là cầu Trường Tiền, chiếc cầu tượng trưng cho xứ Huế, chiếc cầu đã hàng ngàn, hàng vạn lần qua lại, đầy ắp kỷ niệm.


Nhìn qua chợ Ðông Ba và phố Trần Hưng Ðạo mà lòng quặn thắt. Một mái chợ đã sập. Những cột khói ngút trời cách khoảng. Từ đầu đường đến cuối đường Trần Hưng Ðạo không một bóng người. Nhìn bên phải là cầu Gia Hội vắng tanh. Những cột khói khác vươn lên... Cả thành phố đã chết, Huế tôi tang thương đến thế sao ! Một nhịp cầu đã sập, tôi nghĩ vành khăn tang đã cuốn lấy Huế.


Xuống tàu tại chân cầu Trường Tiền, xuôi giòng Hương xanh biếc ngang Gia Hội, quẹo trái sông Hang Bè. Cầu Ðông Ba đó, có tiệm La Ngu ngày xưa chúng tôi thường mua dụng cụ học trò. Tiếp tục xuống ngang tiệm gạo Mụ Ðội, có người con gái đẹp não nùng tên Xuân mà con trai Huế lứa tuổi tôi đều hơn một lần đi qua đó để nhìn người con gái trời cho đẹp. Qua trường Bình Minh, nơi tôi học năm đệ Tam, nhiều kỷ niệm đẹp. Ðến Bao Vinh, dân chúng nhốn nháo khi thấy một đơn vị lớn đang đổ bộ tại bến đò.


Tôi hướng dẫn đơn vị vào Mang Cá Nhỏ để tới bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Ðịch chào đón bằng hàng loạt hỏa tiễn 107 và 122. Tất cả nằm sát bờ tường để tránh pháo và tìm chổ phòng thủ. Tôi cho lệnh Sự, Trung úy Ðại đội phó kiểm soát con cái và chuẩn bị cơm chiều. Trung úy Sự là sĩ quan trẻ, có tài và đầy nhiệt huyết, xuất thân khóa 19 Võ bị Ðà Lạt, thủ môn Hội tuyển Nha Trang, đúng là đa năng đa hiệu. Tôi dự buổi họp Tiểu đoàn khẩn cấp và quan trọng. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh:


- Phu Nhân rành địa thế dẫn đầu, 8 giờ sáng mai xuất phát. Kế tiếp là Tôn, Ðại đội 1, Lượm Ðại đội 2. Tiếp theo là Bộ chỉ huy Tiểu đoàn cùng Ðại đội chỉ huy, sau cùng là Tòng Ðại đội 4. Mục tiêu Phu Nhân phải chiếm là trường tiểu học Trần Cao Vân. Trước trường có thành Quân Cụ, vào khoảng một Ðại đội ta đóng ở đó, không biết còn hay mất.


Phán hỏi:


- Còn phi trường Thành Nội thì sao ? Tình hình trong Ðại Nội, Thiếu tá có nắm vững không ?


- Không rõ, tụi nó chiếm hết, chốt rất kỹ. Tất cả các cửa Thành Nội tụi nó đều kiền và chốt rất chặt. Cửa Hữu, cưSa Chánh Tây, cửa Sập, cửa An Hòa, cửa Ðông Ba, Kỳ đài Phú Vân Lâu...tụi nó đều chiếm hết.


Trong óc tôi, một bản đồ chi tiết hiện ra rất rõ cho một cuộc hành quân mà tình hình tôi nắm không được vững. Tôi cố tìm một con đường ngắn và an toàn nhất cho đơn vị để tới mục tiêu. Có rất nhiều đường đưa tới trường Trần Cao Vân, nơi từ 9 tuổi đến 19 tuổi tôi đã bao nhiêu lần đi lại. Con đường nào cũng đầy hoa và mộng. Nay tôi đang tìm một con đường không có máu để cho anh em chúng tôi đi.


Tám giờ sáng, tất cả gọn gàng, sẵn sàng di chuyển. Ba trăm thước đường từ Mang Cá đến nhà tôi sao quá dài. Bồn chồn, nóng ruột vì nơi đó Mạ tôi, dì tôi, chị tôi và em trai út của tôi đang trông ngóng. Không biết có bị gì không ? Thiếu uý Duật, Trung đội trưởng Trung đội 2 dẫn đầu. Duật xuất thân 21 Ðà Lạt, hăng say, gan, thích xóc đĩa và gái đẹp, uống rượu rất ít, chỉ phá mồi. Phán và Bộ chỉ huy kế tiếp. Thiếu uý Nghênh, Trung đội trưởng Trung đội 1 tiếp theo. Nghênh xuất thân từ ‘Commando du Nord’, kinh nghiệm, gan lỳ, thích đánh phé nhưng đánh nhỏ, rượu rất ít và không thích gái. Kế đến là Thượng sĩ nhất Mã Khện, Trung đội trưởng Trung đội 3, xuất thân Commando trong Nam, rất gan lỳ, ít nói, mê rượu, không mê gái. Sau cùng là Thượng sĩ nhất Hải, Trung đội trưởng Trung đội súng nặng. Hải xuất thân Commando du Nord, người Nùng, lỳ lợm già dặn chiến trường, không rượu, không gái và không thuốc lá.


Hai bên đường dân chúng đứng chen chúc, vẻ mặt hớn hỡ thật tội nghiệp cho họ. Lần lần những khuôn mặt quen thuộc hiện ra, những cánh tay vẫy chào, nào mụ Ðội Dậu, mụ Ba, ông Sung, ông Dung, anh Thiên chủ bàn Ping Pong... Những tiếng nói đó đây:


- Anh Phán đó tề ! Anh Phán ! Anh Phán...


Tiếng gọi lớn dần và lan dài suốt con đường tôi đi.


Con hẻm sát hồ Tịnh Tâm là đường vào nhà tôi. Mạ tôi đó, dì, chị và em tôi đó. Xao xuyến quá ! Tôi đi nhanh đến ôm Mạ tôi, dì và chị tôi khóc như mưa. Thằng em luống cuống chạy quanh, bị Mạ tôi nạt:


- Mi chạy mau vô nhà lấy khúc cá kho khô và đòn bánh tét gói lại đem ra đây bới cho anh mi.


Mạ tôi dụi vào tay tôi chai dầu Nhị thiên đường:


- Con xức cho khỏi gió.


Lính đi ngang hỏi nhau:


- Mạ Ðại úy sao đầu trọc lóc vậy bây ?.


- Bà ấy đi tu để phước cho con, tụi mình cũng được hưởng ké đấy.


Phán và âm thoại viên vẫn còn dừng lại:


- Nhà mình có răng không Mạ ? Bà con thân thuộc có ai bị chi không ?.


- Nhà ông Quế chủ quán Chiêu bị trúng hai trái nhưng người thì không răng. Nhà mình bị ngói đổ một góc, cây đào bị gãy ngọn. Còn thằng Chỉ không biết đi mô.


Chỉ là bạn tôi xuất thân 17 Võ bị Ðà Lạt. Tôi xót xa đắng miệng:


- Thôi con đi, Mạ và gia đình đừng lo cho con.


Mạ tôi khóc òa, tôi thật não lòng. Những tiếng gọi anh Phán, anh Phán tiếp tục vang lên cho đến giữa hồ Tịnh Tâm.


Tiếng gọi, giọt nước mắt và những cánh tay chào vẫy, phải chăng nhắc nhở trách nhiệm của tôi. Bây giờ là lúc đền đáp ơn sâu nghĩa nặng. Vinh dự này thật khổ. Máu nóng sôi trong người, tôi và hai âm thoại viên vượt lên đi với Trung đội đầu. Cuối hồ Tịnh Tâm là đường Tịnh Tâm, tôi cho lệnh quẹo tay mặt theo đường lên nhà ông Ngự Ðạt. Như vậy bên hông mặt của con cái tôi lúc nào cũng có bức thành và cái hồ che chở. Cuối đường Tịnh Tâm quẹo trái là trường tiểu học Ðoàn Thị Ðiểm, nhưng tôi không đi con đường này. Tiếp tục đi thẳng qua một con hẻm nhỏ, con đường đã bao lần đi lại, nào ăn cắp me, nào trộm sấu, nào hái xoài, nào đào sen, nào học thi, nào thăm người yêu...Con đường nào cũng nhắc tôi bao kỷ niệm yêu dấu khôn quên.


Ðến Canh Nông, chưa thấy phản ứng nào của địch, gần sân bay Thành Nội dân chúng thưa thớt và kinh hãi. Tôi cho dừng quân bên này đường, một ông già mách :


- Con đường ni bị bắn rất rát, từ trong cửa Hòa Bình ở Ðại Nội bắn ra.


- Còn sân bay Thành Nội ra sao ôn, có ai khôn ?.


- Ðánh nhau mấy ngày ni dữ lắm, mà tui không biết răng, không biết mình hơn hay thua nữa.


Tôi chỉ con đường và hướng dẫn Duật: Băng qua khỏi con đường này, đến một xóm nhà, qua một cái cống thì bên trái là thành Quân cụ. Nghênh và Mã Khện yểm trợ hông mặt cho Duật, và sau đó băng qua đường theo tôi. Con đường chỉ có 5 thước mà hơn một giờ mới vượt qua với 6 thằng em rớt rụng trên mặt đất. Lần mò theo mép đường tới sát ống cống, tôi cho dừng lại, phi trường vắng tanh. Tôi bảo Duật: Mày cho một thằng con nhỏ qua trước làm đầu cầu bên kia cống, sau đó cho tất cả con cái mày qua rờ vào thành Quân Cụ, chờ tau lên. Thành Quân Cụ cao khỏi đầu người, không liên lạc được với bên trong. Tất cả con cái nằm sát thành để tôi và đám cận vệ bò tới cổng chính. Loáng thoáng thấy nón sắt, Field -Jacket, giây ba chạc...Không phải tụi nó đâu, chắc chắn là bạn rồi. Thằng đệ tử tôi gọi lớn:


- Ê ! Thủy Quân Lục Chiến đây.


Một loạt đạn bay qua khỏi đầu một cách rùng rợn. Bò lết vào tới trong đồn, ông trưởng đồn nói tiếng Huế đặc sệt, ông là Trung uý Cát, thủ môn nổi tiếng của Huế:


- Ðại úy ơi, 7 ngày không ra vào nỗi, nó bao hết. Trường Trần Cao Vân, Ðại Nội, xóm nhà trước mặt và bao quanh đồn tụi nó chốt hết. Nhà Bảo sanh sau lưng trường cách một cái hồ tụi nó cũng chiếm luôn. Dân chúng chạy hết rồi, không còn ai cả. Tụi nó pháo liên miên, không cho ngóc đầu được, đủ loại: 61, 82 hỏa tiễn 107, 122. Tôi ráng cố thủ đây được ngày mô hay ngày nấy, còn ngoài nớ tôi không liên lạc được nên không biết tình hình các nơi khác ra răng.


Tôi trở ra báo cáo về Tiểu đoàn, lệnh của Tiểu đoàn trưởng:


- Phu nhân chiếm cho bằng được trường Trần Cao Vân, dọn sạch chung quanh. Tiểu đoàn trưởng và Bộ chỉ huy sẽ lên ở trại Quân Cụ.


Quan sát địa thế thêm một lần nữa, trước mặt trường là cái am lên đồng, bên cạnh là quán hớt tóc lợp tranh chỉ có một ghế ngồi. Sát đó là ngã ba đường, một đường chạy lên cửa Sập, một chạy về trường Ðào Duy Từ và một chạy đến trường Trần Cao Vân. Có bốn năm cái đầu lố nhố bên trong trường.


Duật phải chiếm am trước, trong trường bắn ra mãnh liệt, có cả B.40. Tôi ra lệnh Nghênh và Mã Khện cầm chân hỏa lực trong trường học. Duật chiếm xong am không một tổn thất. Tôi gọi Thượng sĩ Hải đem hai đại liên và một 57 không giật lên tăng cường cho Duật để Duật yểm trợ cho Mã Khện vào trường. Sau 45 phút dùng mưu kế cùng với hỏa lực và sự gan dạ, kinh nghiệm, Mã Khện đã chiếm được một lớp của trường. Nghênh tràn vào cùng với Mã Khện lục soát và làm sạch sẽ. Hỏa lực từ góc Thành Nội đổ dồn về phía trường học, không sao có thành của các lớp học che chở. Tôi kêu Sự


- Pháo binh có chưa ? Kêu về đại bàng Thanh Hoá cứ bắn vào góc thành cho tau.


Ðến chiều vẫn không có một trái pháo bắn, anh em tôi có 7 đã lót đường cho mục tiêu đầu và 3 bị thương nặng. Tôi lên sát Duật và bảo đem cây 57 đến:


- Nhắm ngay vào góc thành, tụi nó bắn rát quá cứ Phơ cho tau, trật trúng gì không cần, chỉ cần tiếng nổ.


Qua một vạt đất trống, trong một ngôi nhà gạch có bóng người lấp ló. Duật quay 57 nhắm thẳng:


- Nhột quá, cho em bung cái nhà này đi.


Tôi bỗng thấy có bóng đàn bà, tôi la lớn:


- Khoan bắn, nhà thầy Tiềm.


Rồi tôi băng qua đám đất trống đến nhà gặp cô và các cháu. Không thấy thầy tôi chào cô và giới thiệu tôi học Sử địa với thầy ở trường Bồ Ðề và khuyên cô về dưới phố. Tôi trở lại vị trí mà lòng nao nao buồn. Giờ này vẫn chưa có pháo, làm sao khóa góc thành đó lại. Duật bảo con cái đào hầm hố thật kỹ, tôi dặn:


- Mày cố thủ tại đây cho Tiểu đoàn lên.


Tôi cùng đám đệ tử lúp xúp chạy đến tiệm hớt tóc để quan sát ngả ba đường và góc Thành Nội. Tôi chợt nghe tiếng đàn bà rên la quằn quại, sau cùng chỉ còn tiếng rên nho nhỏ. Nơi góc quán tối tăm, một người đàn bà máu me khắp nửa phần thân thể, vừa bị thương nặng lại vừa sanh ra một bào thai lờ mờ tượng hình đứa bé, trông giống như con rắn mối. Xót xa, chịu không nổi, tôi ra lệnh đem chôn đứa bé ngay và chuyển người mẹ về đồn Quân Cụ cho bác sĩ Tựu cứu giúp . Ðến đây 13 người chết và 3 bị thương nặng để trải thảm cho đơn vị.


Tối đó, Bộ chỉ huy Tiểu đoàn đến trại Quân Cụ. Sáng hôm sau, Tiểu đoàn trưởng cho Ðại đội 2 của Tôn và Ðại đội 1 của Lượm dưới sự chỉ huy của đại ca Ðã, Tiểu đoàn phó, chiếm nhà Bảo sanh. Ðoạn đường có 30 thước, cách một hồ nhỏ mà phải trả bằng 50 đứa con thân yêu. Sau 8 tiếng đồng hồ mới chiếm được nhà Bảo sanh, Tôn bị thương ngay từ phút đầu, Lộc Ðại đội phó lên thay.


Mười ngày tiếp theo, nhìn nhau qua một con đường rộng vừa đủ cho xe chạy mà hai bên đều khựng. Mưa vẫn rơi ray rức lê thê, thỉnh thoảng cơn gió thật lạnh thổi qua. Có những trận tấn công chớp nhoáng của địch vào Ðại đội của Lượm và Lộc đều bị đánh bật lui. Ngược lại ta cũng nhiều lần cố tràn qua bên kia nhưng không chiếm được thêm một tấc đất. Hai bên tải thương đều thấy nhau rất rõ. Lượm bị hao hụt nặng, Phu Nhân lên thay. Tôi và con cái bò lên từng toán một, địch và ta đã sát nhau, ngóc đầu lên là đạn bắn xuyên mũ sắt ngay. Hơn nửa ngày mới trám hết vị trí của Lượm. Lượm và Tòng về phòng thủ cho Tiểu đoàn. Tối đến pháo địch đủ loại nổ vang trời. Xác chết của anh em nằm trên mặt đường , sình lớn mà không lấy được. Phía bên kia bốn năm xác địch vẫn để yên, tụi nó cũng không dám ra lấy về. Cố giữ đất, giữ vị trí và làm vài cuộc tấn công nhỏ vẫn không qua đường được.


Từ căn nhà hai tầng cuối đường nhìn xéo từ nhà Bảo sanh, một thượng liên và và trung liên nồi của tụi nó kiểm soát con đường rất kỹ, dưới sự chỉ huy của một đứa con gái mặc áo choàng màu xám, tóc xỏa dài nhưng không thấy rõ mặt. Tay đứa con gái chỉ tới đâu thì đạn nổ dồn về hướng đó. Tôi nhắm bắn hai phát M16 nhưng hụt, nó trốn nhanh vào sau cửa và mất luôn.


Hai mươi ngày nằm chịu pháo và bị bắn sẻ, tối nào hai bên cũng rà máy chưởi nhau. Theo dõi máy, đột nhiên tôi bắt được một câu báo cáo của tụi nó:


- Bồ câu hết thóc!


Tôi nghĩ ngay tụi nó đang thiếu đạn. Nếu cứ nằm như thế này,một lúc nào đó tụi nó tập trung tấn công mình cũng bị mất vị trí ngay, chỉ vì áp lực quá nặng nề, tổn thất nhiều, tinh thần anh em quá mệt mỏi. Tôi đi đến kết luận riêng: nếu mình không đánh nó, chắc chắn nó sẽ tấn công mình. Tôi trình với Tiểu đoàn trưởng:


- Thiếu tá cho tôi luôn thằng 2 để tôi tấn công tụi nó. Tôi thấy tinh thần anh em xuống quá và sức khỏe ngày càng hao hụt.


Tiểu đoàn trưởng không cho bắt ráng giữ vị trí. Phu Nhân năn nỉ:


- Nếu không thì cho tôi đột kích, tôi cùng vài toán nhỏ tràn qua đường đánh đột kích rồi rút về. Mình phải chứng minh cho tụi nó thấy mình còn đủ sức chơi tụi nó, thời tụi nó không dám tấn công mình.


Tiểu đoàn trưởng nói:


- Làm kế hoạch xong cho tôi hay.


Tại hầm của tôi anh em đang chờ, họ gồm: Lộc Ðại đội 2, Sự Ðại đội phó của tôi, Duật, Nghênh và Mã Khện. Tôi nói:


- Nằm chờ lâu tau chán quá, chỉ muốn qua đột kích tụi nó rồi rút về.


Tất cả im lặng, tôi tiếp:


- 4 giờ sáng mai mình đột kích. Nếu giữ được vị trí thời tau cho tràn luôn. Bây giờ tau chọn 4 toán: Toán 1: Phán, Ðiểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy. Toán 2: Duật và 3 người thật nhanh và gan dạ. Toán 3: Nghênh và 3 người. Toán 4: Thượng sĩ nhất Hải và 3 người. Trang bị thật nhẹ: mỗi người 20 qả lựu đạn và hai băng đạn cong ráp ngược cho M16. Sự và Lộc dẫn con cái ra sát bờ đường, khi thấy khói xanh thì lùa tất cả tràn qua. Nếu thấy khói màu vàng, yểm trợ tối đa cho tụi tau dọt về. Sự và Lộc hãy về lo cho con cái, đúng 4 giờ sáng sẵn sàng tại vị trí.


Duật Nghênh và Hải ở lại, tôi nhìn anh em thật lâu rồi cho biết


- Tau theo dõi tụi nó báo cáo qua máy, hình như tụi nó thiếu đạn. Do đó tau quyết định cuộc đột kích hôm nay".


Tôi nghiêm mặt và lạnh lùng nói:


- Hai ông Duật và Nghênh tôi chỉ định phải đi với tôi. Riêng ông Hải, tôi cho ông suy nghĩ lần nữa. Lần này đi khó trở về, ông con cái đông, muốn ở lại vị trí tôi cho phép và tôi hứa rằng tôi không nghĩ là ông thiếu can đảm.


Suy nghĩ một lát, Thượng sĩ Hải trả lời:


- Ðại úy cho tôi ở lại vị trí.


Tôi vui vẻ bằng lòng và gọi Mã Khện đến, Mã Khện đồng ý đi và xin đem theo Hạ sĩ nhất Mười. Tôi tiếp:


- Bây giờ các ông về chọn người xong lên gặp tôi.


Tôi ngồi suy nghĩ miên man, liều, phải liều mới cứu được đơn vị.


Chiều hôm đó, lúc 4 giờ, các toán trưởng lên gặp tôi, có thêm Trung úy Sự. Tôi hỏi lần chót:


- Có ai xin ở lại cho tôi hay.


Không ai trả lời. Tôi căn dặn Sự nhắc Lộc khi thấy khói xanh thì sao và khói vàng thì sao, phải nhớ kỹ. Tôi đưa ba toán trưởng bò đến hầm trú ẩn của nhóm tiền đồn ở sát ngã tư đường. Tôi chỉ từng căn nhà bên kia đường:


- Cái thứ nhất gần ngã tư là mục tiêu của tau, cái thứ hai kế tiếp có hàng rào là của Nghênh, căn thứ ba cũng có hàng rào và cây nhãn cao là của Mã Khện, căn thứ tư có mấy bụi chuối lớn là của Duật. Tất cả hãy quan sát cho kỹ và cố chọn một con đường tiến quân thích hợp, không cần báo cáo miễn sao thích hợp thôi.


Tôi tiếp tục quan sát mục tiêu của tôi. Căn nhà bằng gạch có nhà trên và nhà dưới, kế đó là cầu tiêu xây bằng đá lợp tôn, sát đường là cái giếng xây bằng xi măng. Trước sân có hai cây vú sữa cao và sai trái. Tôi biết phải làm gì để chiếm căn nhà đó. Tôi quay lại nói: - Lần chót tôi hỏi các ông có ý kiến gì không ? Ðúng bốn giờ sáng mai tôi sẽ chiếm trước, sau đó tùy các ông bằng mọi cách phải hốt cho bằng được các mục tiêu tôi ấn định.


Trở lại vị trí, tôi dặn dò Ðiểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy:


- Tối nay miễn gác, 3 giờ sáng mai gặp tau ở đây.


Sau đó tôi đi gặp Tiểu đoàn trưởng để trình bày kế hoạch. Ông nói:


- Nguy hiểm quá, không được, chết cả lũ !.


Tôi nói:


- Nếu Thiếu tá không làm bây giờ, một vài ngày nữa tụi nó chỉ cần ho là lính mình chạy hết !.


Cuối cùng ông chấp thuận:


- Nhớ là có gì thì trở về liền, càng sớm càng tốt.


Tôi dạ nhưng trong đầu tôi nghĩ khác. Trước mắt tôi bây giờ không có gì ngoài đoạn đường từ tiền đồn qua cái giếng, lên cầu tiêu, tới nhà dưới rồi chiếm nhà trên. Tôi nằm suy nghĩ triền miên cho đến 3 giờ sáng.


Trước khi bò ra tuyến xuất phát, tôi nhắc Sự và Lộc một lần nữa cho chắc ăn. Bốn giờ kém mười sáng, toán tôi có mặt tại tiền đồn. Trời vẫn mưa, mưa xứ Huế có dư âm cái lạnh của ngày Tết. Trời tối không thấy gì, tôi ngại bắn lầm nhau. Gắng chờ một chút nữa, đến 5 giờ sáng mưa vẫn không tạnh, trời vẫn tối mù. Năm giờ rưỡi, cái giếng đã nhìn thấy được. Chuẩn bị ! Tôi cảm thấy hồi hộp. Chỉ cần bốn cái nhảy vọt là qua bên kia đường nhưng khó như đi lên trời vì con đường này là con đường tử thần làm ranh giới bên ta và địch, là hai mươi ngày trời không nuốt nổi 5 thước đất. Rách nát bao nhiêu cũng vẫn không qua được. Bây giờ mình cắt băng khánh thành, phải làm để cứu đơn vị, phải hy sinh để cứu đồng đội. Vừa suy nghĩ xong, tôi phóng vụt qua ôm bờ giếng. Kế tiếp là Ðiểu, Việt, Can, Dư băng theo. Tất cả ngồi ôm thành giếng, mồ hôi ra như tắm mặc dù trời lạnh như cắt. Ðiểu và Can chiếm cầu tiêu. Bỗng một loạt đạn thật giòn và thật gần, tôi quay nhìn ra đường. Phúc và cái máy nát mình nằm trên mặt đường nhựa, dưới làn đạn mịt mùng của địch. Tôi hét lớn:


- Dư, Việt chiếm nhà bếp.


Tôi theo sát lên cầu tiêu bên cạnh Ðiểu và Can. Súng và pháo nổ dồn dập, một B.40 nổ ngay trên đầu mái tôn cong, cả ba thầy trò đều bị miễng nhỏ đâm đầy mặt, tóc râu và lông mày đều bị cháy. Cầu tiêu nhỏ quá nên tôi cùng Ðiểu và Can lên nhà bếp. Tôi ra lệnh:


- Ðiểu và Dư chiếm nhà trên, lục soát thật kỹ. Ðể Việt ở lại, tôi và Can cũng lên nhà trên. Ðiểu và Can giữ cửa chính nhìn ra sân, tôi và Dư giữ cửa sổ nhìn ra vườn có nhiều luống khoai lang.


Trời sáng hẳn, tôi lắng tai chẳng nghe nhà bên cạnh có gì cả bèn bò trở ra bờ giếng và thấy Duật, Nghênh, Mã Khện vẫn còn bên kia đường. Tôi toát mồ hôi. Tôi nhìn thẳng vào mấy ổng rất nghiêm và lấy ngón tay ngoắc. Tôi không dám gọi lớn tiếng, mấy ông kia gật đầu. Tôi bò trở lên nhà trên. Lựu đạn, súng nhỏ, súng lớn nổ khắp nơi và nhất là bên phía tay mặt tôi. Tôi biết rằng tụi tôi đã băng được qua đường. Tôi hỏi khẽ:


- Thấy gì không Dư ?.


Dư lắc đầu, tôi nghe tiếng thì thào sát vách tường phía ngoài. Tôi đoán khoảng 7-8 người đang ở trong một cái hầm, tôi dùng ngón tay đẩy nhẹ cửa sổ. Một loạt đạn từ phía nhà đối diện xuyên ào ào vào cửa sổ. Bỗng Dư chỉ tay về phía các luống khoai, tôi đếm đủ 11 người đang bò qua, kaki Nam Ðịnh, súng AK và B.40, cách vách tường khoảng 20 thước, 15 thước rồi 10 thước. Tôi đưa súng lên lên định bóp cò thì Dư kéo lại và ra dấu đừng bắn dùng lựu đạn. Tôi dựng cây súng xuống thật nhẹ, hai tay rút hai trái lựu đạn miệng cắn chốt. Dư cũng thế, bốn lựu đạn ném ra cùng lúc, tiếng nổ xé trời, rồi bốn trái tiếp theo. Bên ngoài tường, tiếng hét lớn rồi tiếng rên và sau đó im lặng, tụi còn lại bò sát vào chân tường. Nhìn ra cửa, 5 xác nằm vắt trên luống khoai. Một loạt đạn nổ và tôi nghe:


- Chết em, Ðại uý!.


Tôi sững sờ nhìn Dư, tay trái ôm ngón út của bàn tay mặt đầy máu, ruột của Dư đổ ra lòng thòng. Dư ngã vật ra chết tại chỗ, nơi Dư đứng có một lỗ hổng nhỏ ở vách tường. Vì mãi nhìn qua cửa sổ mà không để ý ở phía dưới: nguyên một họng AK thọc qua lỗ tường để sát bụng Dư mà nhả đạn. Tôi bắn một loạt M16 ra cửa sổ, và cứ thế hết quả này qua quả khác tôi ném tất cả lựu đạn của tôi ra ngoài bờ tường. Hai thằng em đã hy sinh, còn bốn thầy trò phải giữ vững vị trí. Phía bên tay phải của tôi, súng vẫn nổ dữ dội. Ðến 10 giờ 30 sáng tôi cho Ðiểu liên lạc với Nghênh, Duật và Mã Khện. Ðiểu băng người ra đi, bốn căn nhà cách nhau mười phút đi bộ mà hơn một tiếng đồng hồ sau Ðiểu mới về báo cáo là tất cả đã chiếm được mục tiêu. Có đoạn đường nào xa và xấu hơn đoạn đường tôi đang đi ! Toán Duật: một chết một bị thương. Toán Mã Khện: hai chết. Toán Nghênh một chết một bị thương. Tất cả là 6 chết 2 bị thương, chúng tôi còn lại 11 người tại tuyến.


Ðiểu bò ra giếng cố đem qua cho tôi một cái máy. Cột máy vào một đầu dây và quăng đầu dây kia qua cho Ðiểu kéo. Can mờ máy liên lạc với Tiểu đoàn:


- Trình đại bàng, tôi sẽ cho tràn ngập vị trí với thằng 2 của Lộc và thằng 3 của tôi.


Ðại bàng hỏi:


- Tại sao từ sáng đến giờ không chịu liên lạc với tôi? Tôi ra lệnh rút về ngay.


Phán nài nỉ:


- Ðây là dịp may, tinh thần anh em đang lên, tôi xin đại bàng cho làm luôn !.


Ðại bàng Thanh Hóa nói bằng bạch văn không ngụy trang:


- Nếu anh không rút về, tôi sẽ đưa anh ra tòa án quân sự.


Khí giận bừng bừng, tôi tắt máy không trả lời, trên tay vẫn cầm trái khói xanh. Suy nghĩ thật kỹ ! Suy nghĩ thật kỹ ! Hơn mấy giờ để đánh mục tiêu, bốn căn nhà và một con đường ngập máu. Mưa vẫn lạnh như cắt da và mồ hôi vẫn ra như tắm. Cuối cùng tôi đành bảo Ðiểu chuyển lệnh cho các toán:


- Rút về ngay, mạnh toán nào rút toán nấy, không chờ đợi. Mang thương binh theo, xác chết bỏ lại.


Năm thước đường đi đã khó, về còn khó hơn. Mỗi bóng người nhúc nhích là đạn nổ hàng loạt, liên hồi, đạn bắn chéo bao phía, đan lưới thật dày trên mặt đường và khắp vị trí. Làm sao trở về đây ! Con cái bên kia đường đưa mắt theo dõi. Toán tôi bò ra giếng, bỗng mấy bóng đen vụt qua đường như sao xẹt, nhào vào bờ lề và được anh em kéo ra sau. Ðạn nổ dòn tan cày nát mặt đường. Ðây là mấy đứa bị thương nặng, tưởng là di chuyển không nổi, nhưng khi nghe lệnh rút chúng thu hết tàn lực vùng chạy về, chớp mắt không kịp thấy.


Hỏa lực 3 phía nổ vùi vào vị trí chúng tôi. Các toán đột kích không còn liên lạc với nhau. Ðiểu và Can vẫn giữ căn nhà. Ðịch kiểm soát con đường bằng mấy cây thượng liên và trung liên, chúng bắn liên miên. Bên kia đường, Sự và Lộc đáp lễ bằng hỏa lực cơ hữu của Khăn tím và của 2. Tôi lấy chân đạp vào thành giếng phóng người băng qua đường, lăn mình, nhảy, chạy và té ào vô bờ lề. Anh em kéo vội tôi ra sau, tôi dừng lại bảo Lộc và Sự bắn từng loạt một để tụi nó dọt về. Nhìn thấy Việt ngồi thành giếng trố mắt ngó về mà tội nghiệp. Sống và chết cách nhau có một con đường. Tôi hồi hộp xót xa cho mấy thằng em. Tôi vừa quay mặt hét:


- Bắn kềm mấy cây thượng liên, thì những bóng người bay vọt qua đường. Tim tôi thắt lại, đạn nổ mịt mù. Lần lượt tôi gặp Nghênh, Duật, Mã Khện và tất cả anh em. Tôi ôm ghì từng đứa, tụi nó còn sống cả. Can và Việt nhào đến ôm tôi một cách dữ dội mà đậm đà trìu mến. Lính với tay sờ người, nắm nhẹ áo tôi: Ðại úy, tóc và râu Ðại úy cháy hết rồi, mặt bị dăm nhiều chỗ. Cả Ðại đội bất chấp đạn địch, đứng dậy nhìn nhau hãnh diện và sung sướng. Tôi báo cáo Tiểu đoàn:


- Tất cả đã về vị trí. Bỗng tôi thấy thiếu một cái gì, tôi nhìn Can và Việt hỏi:


- Thằng Ðiểu đâu ?.


Tụi nó nói:


- Lần cuối cùng em thấy nó vừa khóc vừa chạy lung tung tìm xác Ðại úy ở bên ấy.


- Thôi chết tau rồi, tau phải cứu nó, hai thằng bây theo tau.


Tôi, Can và Việt bò trở ra đường. Bỗng nhiên một bóng người nhảy qua khỏi hàng rào, nhảy qua khỏi miệng giếng, phóng nhanh qua đường, nhào lăn rào rào vào vị trí và la lớn: - Ê, tụi bay thấy anh Hai đâu không?.


Ðiểu đứng dậy nước mắt đầm đìa, tôi lao đến ôm Ðiểu:


- Tau định qua kiếm mày đây !.


- Trời anh Hai, tụi nó nói anh Hai chết rồi. Em đi lục hết căn nhà mấy chục lần, chỉ không dám ra ngoài hè mà không thấy xác anh Hai đâu. Hôm trước Mạ có dặn nhỏ với em, phải sát bên cạnh anh Hai, nếu có gì cũng phải nhớ đem anh Hai về cho Mạ..


Tóc tai mặt mày râu ria Ðiểu cháy nám, áo quần rách bươm, nó khóc mùi mẫn vì thấy tôi còn sống. Rồi nó lại bẻn lẻn cúi đầu hai hàng nước mắt lã chã giọt xuống đất. Trong một cuộc chiến bạc bẽo lại có chút tình nghĩa trao nhau qua mấy giọt nước mắt nóng hổi.


Sáu giờ chiều, xuống trình diện Tiểu đoàn trưởng, ông nói ngay:


- Ông làm những chuyện nguy hiểm quá, lỡ kẹt bên đó thì nói làm sao với Lữ đoàn ?


Tôi dạ dạ vâng vâng cho qua rồi nghiêm mặt đề nghị:


- Thưa Thiếu tá, ngày mai cho tôi tấn công, tôi tin chắc sẽ tràn ngập vị trí tụi nó. Cho tôi thêm thằng 2 của Lộc, để thằng 1 của Lượm đi sau thu dọn chiến lợi phẩm. Chỉ xin Thiếu tá cho tôi hai chiếc tank kèm hai bên hông của tôi. Ông hỏi:


- Có chắc ăn không Phán ?.


Tôi cương quyết:


- Chắc, và nếu tràn được vị trí Thiếu tá cho phép tôi đánh thẳng lên Kỳ Ðài nếu kịp thời gian.


Tôi theo Tiểu đoàn trưởng lên trình ông Già Hự, Ðại tá Yên Tư lệnh phó. Ông già chấp thuận.


Tôi trở về họp các Trung đội trưởng: Ngày mai, 8 giờ sáng, Ðại đội 3 Khăn tím bên trái, Ðại đội 2 của Lộc bên phải, dàn hàng ngang lấy con đường lên cửa Sập làm chuẩn tiến song song. Sau khi hai chiếc tank yểm trợ bằng hỏa lực xong, cả hai Ðại đội xung phong tràn ngập vượt qua mỗi chốt thật nhanh, không cần thâu lượm chiến lợi phẩm, để cho Ðại đội 1 đi sau làm chuyện đó. Tất cả ba lô và đồ ăn để lại, trang bị thật nhẹ. Khi tới xóm nhà sát cửa thành thì dừng lại chờ tôi.


Ðúng 8 giờ sáng ngày hôm sau, dàn quân, hai chiếc tank Ontos hạng nặng tiến lên, mỗi chiếc trang bị 6 cây đại bác 106 ly. Tôi chỉ vị trí tác xạ cho hai trưởng xa người Mỹ rồi ra lệnh khai hỏa. Hy vọng 12 cây 106 ly này sẽ san bằng mục tiêu trước mặt cho con cái tôi được dễ dàng đôi chút. Nhưng mỗi chiếc tăng chỉ bắn một phát đạn duy nhất rồi chạy lùi biến mất, không biết chạy về đâu. Tôi hết hồn, quân đã dàn xong, bắt buộc tôi phải ra lệnh xung phong. Tôi hét thật lớn, hét khản cả cổ:


-XUNG PHONG!


Cả một đoàn quân dàn hàng ngang, không một ai nhúc nhích. Con đường trước mặt, con đường của 21 ngày máu và nước mắt, con đường tráng nhựa đẹp đẽ nhưng băng qua là đi vào cõi chết. Tôi tức giận chửi thề lung tung rồi chụp cây đại liên M.60 của người lính bên cạnh bắn một loạt dài rồi một mình tôi vừa bắn vừa băng qua đường cùng với toán cận vệ: Can , Việt, Ðiểu và hai thằng mang máy. Qua khỏi đường xông tới trước, tiếng đại liên của tôi nổ dòn. Ðúng lúc ấy cả đoàn quân đồng thanh hô xung phong và ào qua đường. Sau đó, đoàn người vượt nhanh qua mặt tôi và lướt tới trước. Súng nổ vang rền, đoàn quân tiến đều, M16 bắn vãi vào chốt, lựu đạn ném vào chốt, đạp chốt, bang chốt, lướt qua, cố giữ đội hình. Tiếng nổ inh tai liên tục, đàn áp thật mãnh liệt và chạy tới trước. Ðến 3 giờ chiều, chúng tôi đến xóm nhà sát cửa Sập.


Lính vỗ vai nhau cười làm tôi bắt cười lớn vì xóm nhà này rất quen thuộc với họ. Lính thường hay đến xóm này rồi về kể nhau nghe con này đẹp, con kia chân dài, con nọ... Nào khăn, nào thau vứt bừa bãi khắp nơi. Lính vui vẻ kể chuyện tục cho nhau nghe và hồn nhiên đùa nghịch. Những tiếng cười đầy ham muốn và thèm thuồng, hơn 40 ngày, từ vùng 4 về giải tỏa Sài Gòn rồi ra đây, không thấy mặt một người đàn bà, chỉ thấy toàn máu và mồ hôi.


Tôi ra lệnh:


- Lộc và Sự mỗi ông cho một toán 10 người băng thật nhanh đến áp sát mặt thành xong ngồi xuống. Toán kế tiếp chạy đến leo lên vai toán thứ nhất để toán này đồn đồn lên thành. Khi bám được mặt thành thì tác xạ tối đa và bằng mọi cách giữ vị trí để làm đầu cầu.


Con cái tôi hành động đẹp còn hơn tài tử xi nê. Tiếng đạn lớn nhỏ nổ rền, hai toán lên thành chiếm xong vị trí. Tôi cho tất cả con cái đem bàn ghế ra chất sát tường và leo lên ngay. Tiếng đạn và pháo địch vẫn mãnh liệt trên nóc thành, phải khóa lại. Một chặng đường xương máu đã vượt qua, bây giờ mục tiêu chính, mục tiêu của niềm hãnh diện, mục tiêu của ơn sâu và nghĩa nặng: Kỳ Ðài Huế. Ðây là nơi tượng trưng cho linh thiêng của dân tộc nói chung và cho Huế nói riêng. Duật và 20 người tiến chiếm 6 cây súng thần công to lớn, từ đó Duật dùng hỏa lực kềm địch ở cửa Ngọ Môn, yểm trợ cho Nghênh và Mã Khện chiếm Kỳ Ðài. Ðịch bắn trả. Con cái tôi dùng hỏa lực tối đa và thần tốc tiến vào Kỳ Ðài. Phản ứng của địch bắt đầu yếu, 5 giờ 12 phút chiều, màu áo rằn ri Thủy Quân Lục Chiến đã làm chủ Kỳ Ðài. Lá cờ xanh đỏ sao vàng đầy hận thù còn ở trên không. Một thằng lính rút đâu trong người ra một lá cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn. Tôi gọi về Tiểu đoàn:


- Tất cả đã sạch sẽ , xin Thiếu tá cho tôi treo cờ.


Tôi nhớ rõ lệnh của Trung tướng Lê Nguyên Khang:


- Một người lính Thủy Quân Lục Chiến duy nhất còn sống sót cũng phải dựng lại cho được ngọn cờ vàng tại Phú Vân Lâu.


Trong niềm vui sướng cùng tột , Hạ sĩ Hạnh hét lớn: Thủy Quân Lục Chiến ! Xong lấy trái hỏa châu đập mạnh định bắn pháo bông lên trời ăn mừng. Trong cơn say chiến thắng, Hạnh xoay ngược đầu hỏa châu vào mình, hoSa châu nổ xuyên bụng. Hạnh cười tươi:


- Em không sao Ðại úy!.


Phán nghĩ thằng em này tỉnh táo quá, chắc nó chết. Và nó chết thật.


Tiểu đoàn trưởng bảo Phu Nhân giữ đầu máy chờ. Sau này tôi được nghe: Khi báo cáo về Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1, Chuẩn tướng Trưởng xin Thủy Quân Lục Chiến dành vinh dự treo cờ cho Sư đoàn 1. Sáng hôm sau ngày 24/2 Phạm Văn Ðịnh dẫn một đơn vị của Sư đoàn 1 từ cửa Thượng Tứ lên làm lễ thượng kỳ.


Nhìn lá cờ vàng phất phới trên nền trời màu xám của Huế, tôi hãnh diện thật sự vì một thằng con của Huế đã góp phần dựng lại ngọn cờ này. Trung úy Sự trình tôi:


- Thằng Hạnh chết, mình còn 67 người.


Ðại đội ra đi hơn 17O người, sau 24 ngày và sau bao nhiêu lần bổ sung quân số, chỉ có 3 mục tiêu: con đường, cửa Sập và Kỳ Ðài mà bây giờ tôi chỉ còn lại 67 người.


Sáng hôm sau tôi về phối trí đóng quân lục soát ở khu vực cửa Ðông Ba, Nhà Thương Nhỏ, chợ Xép, ngã tư Anh Danh. Bộ chỉ huy của tôi đóng tại một tiệm cầm đồ, tiệm này có Tôn và Lưu cùng học một lớp với tôi hồi nhỏ. Trong nhà không còn ai cả Chiều hôm đó tôi gặp lại rất nhiều bạn bè cũ. Tình hình chưa được an ninh hoàn toàn nhưng đóng ở đây chúng tôi nhẫn nha hơn trước nhiều. Tôi đi kiểm soát các vị trí và cho lệnh lục soát tàn quân địch. Lính canh bắt giải tới một người đàn ông lớn tuổi, gầy ốm ăn mặc lếch thếch, áo vét nhàu rách, tóc tai rối bù và dơ bẩn, miệng nói lí nhí.


- Lệnh giới nghiêm, đã 11 giờ đêm sao ông này còn lang thang trên hè phố, em nghi quá,


Người lính nói. Tôi sững sờ nhìn người đàn ông. Thầy Cao Hữu Triêm!


- Trời ơi Thầy!.


Tôi gọi mấy tiếng lớn mà thầy cũng không nghe, thầy tiếp tục lẩm bẩm rất nhỏ. Tôi cầm tay mời thầy ngồi:


- Con là học trò cũ của thầy đây.


Một ánh mắt lạc lỏng xa vời:


- Ờ, ờ sao con khỏe không ? Thầy mấy ngày ni chưa ăn chi cả.


Lính tôi kiếm cơm trắng và một đĩa gà luộc về mời thầy xơi. Tụi nó còn kiếm được một bình trà nóng mời thầy. Sau một hồi thầy tỉnh táo, và cho biết: cô và sắp nhỏ vào Ðà Nẵng, thằng con lớn bị chết rồi, thầy không muốn về nhà nữa. Rồi thầy khóc, giọt nước mắt lăn dài trên đôi má nhăn nheo.


- Thôi thầy ở đây với con cho yên, tôi nói.


Lính của tôi thay nhau hầu hạ thầy ân cần, đến ngày thứ tư thầy đòi đi, tôi thu xếp để thầy vô Ðà Nẵng. Từ đó, tôi mất tin tức của thầy. Cầu mong thầy được bằng an.


Ðược sinh ra và lớn lên ở Huế, tôi cố trả một phần nào chữ Hiếu cho nơi chôn nhau cắt rún. Máu của tôi, của anh em tôi, của đồng bào tôi đã tạo thành một cơn sóng thần cuốn đi tất cả kẻ thù để dựng lại ngọn cờ trên Kỳ Ðài tượng trưng cho Huế. Hai mươi năm sau, hồi tưởng lại, máu và xương kia đã theo giòng Hương giang cuốn tôi và bằng hữu ra biển bắt làm người biệt xứ. Lạy trời, một ngày nào đó, cũng Cố Ðô đó, cũng Kỳ Ðài đó, cho tôi được góp phần dựng lại ngọn cờ một lần nữa để đền đáp ơn sâu và nghĩa nặng, nơi tôi đã sinh ra, nuôi tôi lớn lên và cho tôi làm người.

MX Nguyễn Văn Phán

TRẬN DIỆT CHIẾN XA - NDVN Bùi Đức Lạc


            Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, với huy hiệu Song Kiếm Trấn Ải, sau khi ngậm đắng nuốt cay phải để Mũ Đỏ Nguyễn đình Bảo ở lại với Charlie, mối đau còn thấm trong tim gan, trong lòng mọi quân nhân các cấp, cho tới ngày 15 tháng 4 năm 1972, ngoại trừ các con chim không may bị sa vào tay giặc, vài con chim cuối cùng  trong đàn chim lạc của Song Kiếm Trấn Ải còn tìm về với gia đình của mình tại căn cứ Metro nơi đóng quân của Pháo Đội C1 Nhảy Dù, mấy ngày nay Pháo Đội C1 Nhảy Dù, theo lệnh trên nên cứ năm hay mười phút, lại cất tiếng vang vang trên dãy trường sơn, súng đại bác bắn tiếng một, như tiếng chuông chùa ngân vang khi chiều tàn, nghe đến não lòng, tiếng súng đại bác như tiếng pháo đơn lẻ vô duyên, ôi! Tiếng súng đại bác như tiếng quốc kêu từng tiếng một, từng tiếng một tha thiết gọi đàn!

            Nhớ bạn (nước) đau lòng con quốc quốc

                                    ( Huyện Thanh Quan)

            Mục đích để những anh em thất tán nghe tiếng pháo, may ra có ai còn đủ sức, định hướng trở về, nhưng hy vọng cuối cùng không còn nữa, những ngày sau đó không còn một tăm hơi nào, tuy vậy thỉnh thoảng tiếng súng Đại Bác lại cất tiếng ngân vang, niềm hy vọng tuy dập tắt, nhưng lòng người vẫn còn nhen nhúm đợi chờ, niềm tin nhẹ bay, người pháo thủ Mũ Đỏ, không nói một lời sau khi bắn đạn đi, đạn sẽ rớt vào một điểm nào đó vùng Charlie và anh không sao ngăn nổi giọt lệ, nhẹ lăn trên gò má rám đen vì khói súng, hay phải chăng vết tràm do nắng cao nguyên; tiếng thở dài nhẹ nhàng nhưng chứa chất nỗi căm hờn khôn tả, núi rừng như thấu lòng người, chưa hết xuân mà hoa biếng nở, chim chẳng muốn nô đùa cùng nắng chói chan, tất cả đều đã chìm ngập, trong tiếng thở dài u uẩn nghẹn ngào, trong ánh mắt căm hờn, thù này khó quên thù này phải ghi khắc trong tim, trong gan, trong từng thớ thịt, trong từng tế bào, cúi mặt chiêu niệm, linh hồn các chiến hữu Mũ Đỏ trong đàn chim không may gẫy cánh, tiếng pháo như tiếng kêu của chim Gia Gia, nghe muốn đứt từng khúc ruột.

Thương bạn (nhà) mỏi miệng cái Gia Gia

                        (bà Huyện Thanh Quan)

 

Charlie hãy yên nghỉ, một ngày nào nữa đây hận này không quên, hận này phải trả, chim thần ưng anh dũng muôn phương, đôi chân dũng mãnh càn qua chiến khu mà bọn quỉ đội nốt người cho rằng bất khả xâm phạm, chiếc mỏ cứng đập tan tành chủ nghĩa vô thần của loài quỷ đỏ, cánh đại bàng tung mây lướt gió, sóng trùng dương không làm chim mỏi cánh, nhưng không may gió trường sơn làm chim gẫy cánh, người ta không chú ý đến những chuỗi ngày oanh liệt của chim, người ta sẽ chú ý đến lần chim không may gẫy cánh, và họ sẽ nhắc nhở trăm ngàn lần chim mắc nạn, vết tràm khôn gột rửa được.

            Thứ hai ngày 17 tháng 4 năm 1972 Thiếu Tá Lê văn Mễ tiểu đoàn phó được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưông Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, cũng là ngày TĐ11ND chính thức mang vành khăn tang Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, để trở về Sài Gòn chỉnh quân, đàn chim ưng về tổ ấm, chau chuốt lại bộ lông, mầu hoa rừng, vuốt lại móng để tung cánh trở lại núi rừng, trở lại ngàn khơi, đua cùng cây cỏ, cùng núi rừng, cùng đại dương bát ngát, móng vuốt này thử sức cùng bọn quỷ đang dầy xéo quê hương, mọi người im lặng nhìn nhau không nói , không nỗi đau nào cay đắng hơn, một lễ tuyên dương ngắn ngủi, một lễ truy điệu âm thầm, dù nắng mưa đã làm chai đá đời chiến binh, dù sa trường đã tôi luyện chí anh hùng trở thành sắt thép, nhưng cuộc chia ly này đã làm nát gan tím ruột! Ôi ! giòng nước mắt nào đây! Tuy không chan hòa, như nhi nữ thường tình, không bi lụy như thiếu phụ Nam Sương, nhưng giòng nước mắt đắng cay, cô đọng lại, nay mới có cơ hội tràn ra, để nung chí tang bồng, cho thương yêu chồng chất được tỏ bầy, cho căm hờn được nung nấu, cho lời thề được xác nhận.

             

            Ta đi đi lời thể nguyền,

            Tung gươm thiêng

            Đời hùng cường

            Quyết chiến đấu đoàn quân ra đi,

            ..................................................

            Sa Trường.........Thấp thoáng bóng mây,

            Muôn bóng (quân) Dù bay rợp trời,

                                    (Lục Quân Việt Nam)

Trời Kontum ảm đạm, hàng phượng vĩ không buồn nở hoa, gió biếng cuốn những lá rơi rụng bên đường, mặt trời buồn ngái ngủ, nắng ban mai khép nép chưa hiện hình, đoàn trai phong sương lên xe ngồi im bất động, tiếng cười đùa vô tư đã bị lễ truy điệu mang theo, ngay ngắn thẳng hàng trong tư thế nghiêm chỉnh, mắt họ nhìn về phương trời xa xôi cuốn hút, núi đồi như mang mang nỗi khắc khoải trong lòng, họ trở về Pleiku, họ trở về Sài Gòn-Long Bình nơi nung nấu chí phục thù, nơi hun đúc chí nam nhi, quyết tâm rửa hận.

Đoàn hùng binh hiên ngang nhìn trong trời sương, (LQVN) chỉ ít ngày sau quân trang được cấp phát, quân số được bổ xung, kỹ thuật tác chiến, được trau dồi nhuần nhuyễn, cũng vừa đủ thời gian các quân nhân, trong đơn vị nhận diện nhau cùng một khu bưu chính, rồi đoàn hùng binh sẵn sàng lên đường, gươm đã mài xong, chí khí đã vững mạnh bùng lên hùng hồn, tinh thần đã xung mãnh; hôm nay biết bao nhiêu giới chức đến khích lệ, biết bao nhiêu quan khách, dùng lời lẽ khích tướng khi đoàn quân chuẩn bị lên đường, ngày mai đàn chim Song Kiếm Trấn Ải, giã từ Long Bình, giã từ Biên Hòa, giã từ Sài Gòn và không quên giã từ người yêu thương để lên đường trả đại thù cho đơn vị, lần này lên đường không thăm Tây Nguyên với các em má đỏ môi hồng để trả nợ núi sông, mà lên đường thăm người em sông Hương núi Ngự, với hành trang quyết tâm bảo vệ quê hương, phải giành lại phần đất đã mất về tay giặc, cũng cần phải rửa hận cho vơi đi sầu thương nhớ.

Huế, Huế không một bóng hình thân thương lai vãng, để Huế diệu vợi, để Huế thơ mộng như ngày nào, mà Huế điêu tàn hoang phế, thân xác em trông thật rã rời, núi đồi kia im lìm hờ hững, ai phụ nhau trong chiều hè oi ả, anh nâng em đứng dậy để vang khúc an bình, mùa hạ này, có trai, có gái, có già, có trẻ, để khúc ca mới lưu truyền cho hậu thế, cho ngàn đời sau, cho vạn đời sau, em hãy ngồi yên, để anh tô son, cho môi hồng đượm nét đa tình, em hãy ngồi đây, cho phép anh gỡ rối bụi tóc trần, tiếng súng xa sẽ không còn làm em rùng mình, lo sợ, em hãy ngồi đây, đón nhận tình lính nghe em, người yêu ơi! Tình lính đơn sơ nhưng chân thật, tình lính không bay bướm nhưng chưá chan, chất ngất, dài như trường sơn, rộng như biển cả.

Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, đã xử dụng Trung Đội 2 Quân Cảnh, thuộc Đại Đội 204 Quân Cảnh, quét sạch vấn rác cho cố đô, sống lại tình người, ngay ngày hôm sau không còn giờ phút lưu luyến Huế nữa, người lính Mũ Đỏ, mắt đăm chiêu nhìn dẫy trường sơn, thách thức lên đường,  môi không còn mỉm cười, mà mím chặt, để giữ trọn chí căm hờn, đầu óc không còn thì giờ nghĩ tới em, mà đang nghĩ dùng kế nào, để ngăn bước chân thù, đang dầy xéo quê hương, phải rồi! phải tung ngay ra tuyến đầu Mỹ Chánh, nơi địch quân, đang nhòm ngó, nơi địch quân, đang thăm dò để vượt qua, nếu địch quân vượt qua Mỹ Chánh dễ dàng, thì Huế trong tay địch, phải cho địch quân thấy miếng mồi ngon dễ nuốt, nhưng không phải dễ làm, quà nào cho bọn hung thần phương Bắc, chắc chắn quân thù phải đưa thành phần hung bạo nhất, chiếm lấy miếng mồi ngon này, còn đợi gì mà ngư ông, lại không đưa miếng mồi ngon cho cá cắn câu, địch quân thấy được đơn vị vừa bỏ con chim đầu đàn lại Charlie, chắc chắn tinh thần đang sa sút,  vậy còn đợi gì mà không đặt TĐ11ND vào Mỹ Chánh; tuyến địa đầu hung hiểm, rồi từ đó bọc vòng cung sang tây nam theo thứ tự Tiểu Đoàn 9 Nhẩy Dù, rồi đến Tiểu Đoàn 7  Nhảy Dù, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù và Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù trong khu căn cứ  Hòa Mỹ, đó nếu muốn chúng tôi ở thế phòng thủ, phải cho chúng tôi, tự tìm cho mình thế nằm, của rắn cobra để dễ cựa mình, để dễ bề vùng lên, tiêu diệt quân thù, không thể nằm quanh tròn, như loài  rắn cỏ được, một đơn vị chuyên về lưu động chấp nhận tao ngộ chiến, lại bắt nằm một chỗ cúi đầu xuống đất, làm mục tiêu, cho địch quân thực tập tác xạ pháo binh.

Tôi không nghĩ Charlie có thể làm mục tiêu, cho pháo binh địch bắn thực tập, ngày đêm, bắn hàng ngàn quả đạn vừa Hỏa Tiễn, Pháo Binh nòng ngắn, nòng dài, súng cối đủ loại, rồi nguyên một sư đoàn SĐ320, sư đoàn mệnh danh là sư đoàn Thép, sư đoàn Diện Biên Phủ của địch, con cưng của Bác và Đảng nhục nhã, luân phiên gửi từng trung đoàn tấn công, địch quân dùng chiến thuật xa luân chiến như vậy, suốt hai tuần lễ, mà Charlie không rữa nát cùng cỏ cây, Ấy vậy mà Charlie vẫn nguyên hình, địch vẫn không chiếm được Charlie, sau cùng nếu TĐ11ND không vì hết lương thực, không vì hết đạn phải rút lui! Thì Charlie vẫn còn là mục tiêu cho địch thực tập tác xạ Pháo Binh. Nhưng chua cay, là mất Vị Tiểu Đoàn Trưởng vì trúng đạn pháo binh thực tập của địch, một Tiểu Đoàn Trưởng Nhảy Dù, không phải hy sinh vì chiến trận, mà hy sinh vì trúng đạn pháo binh của địch, trong lúc địch thực tập tác xạ, nó đúng như vậy đó quí vị ạ, chiến tranh nó tồi bại như vậy đó, không thua sao được?

Nếu một Tiểu Đoàn Nhảy Dù Việt Nam có một pháo đội pháo binh 105 của QLVNCH yểm trợ trực tiếp và một pháo đội 155 yểm trợ tăng cường khi cần, chỉ cần một ngàn đạn 105 mà thôi, nếu một Tiểu Đoàn địch cũng đến chiếm đóng mục tiêu tương tự như Charlie, trong vòng một ngày tôi bảo đảm ngày thứ hai là ngày giỗ cho cả Tiểu Đoàn này; nó  vô lý đến thế, cùng tận của trận mạc rồi, ấy thế mà nó xẩy đến cho đơn vị Nhảy Dù, đơn vị Tổng Trừ Bị của QLVNCH, hỏi rằng các đơn vị khác còn chịu biết bao đắng cay hơn, không ai biết đến, hàng trăm ngàn chiến sĩ vô danh, ngậm đắng nuốt cay, hàng trăm đơn vị của ta bị vùi lấp oan khiên, vì không được chiến đấu đúng với nghĩa trận mạc, tôi không bao giờ đổ lỗi cho các cấp chỉ huy, nhưng tôi đổ lỗi cho trời cao, đã đọa đầy dân tộc tôi, chịu bao cảnh oan khiên, cho tới mức này, vẫn chưa vừa lòng trời cao, đất đầy hay sao? Chưa hết sao?

Chiến trường Trị Thiên, lại mời chào chúng tôi; mới ngày đầu vào vị trí phòng thủ mà sao các bạn phương Bắc đã cạn tình, họ dàn chào chúng tôi bằng tất cả lực lượng pháo hùng hậu sẵn có của họ, đủ loại pháo nhắm vào ba pháo đội của TĐ1PBND, sau đó đến các đơn vị khác, vì dầu sao bộ binh di chuyển cũng dễ ngụy trang hơn, nhưng chúng tôi đã biết trước là sẽ được dàn chào kỹ càng như vậy nên nhằm nhò gì ba cái lăng nhăng này.

Chó sủa mặc chó;

Đoàn Pháo Binh Nhảy Dù luôn tiến tới

Ta hiên ngang, ngày ngày bốn phương trời

Đoàn lữ hành vẫn đi,

  (nhái theo Nguyễn Tấn Bạch)

Mũ Đỏ không đi, Mũ Đỏ mạnh bạo tiến vào sa trường, chấp nhận tiến vào vùng tử địa, để Huế được thanh bình, để dân chúng miền Nam nước Việt được sống theo ý mình, các đơn vị Mũ Đỏ vào vị trí đã được ấn định, nặng nề nhất vẫn là các đơn vị Pháo Binh, nhưng các đơn vị Pháo Mũ Đỏ, vào vị trí an toàn không một thiệt hại nào, không một ai bị ( rách áo hay thủng quần ) ba pháo đội phải từng khẩu ngụy trang vào vị trí, địch trên cao nhìn xuống, địch bên hông nhìn vào, nhưng chúng tôi vẫn nương theo triền đồi để địch quân không sao nhận diện được, những con gà cồ 105 ly từng con vào cạnh các lùm cây, đầu hướng về phương bắc, xa xa trông vị trí mỗi Pháo Đội không khác gì cánh rừng Tràm xanh ngắt, đó chính là công lao và kỹ thuật di chuyển, ngụy trang cao, của các Pháo Đội Trưởng, các Khẩu Đội Trưởng và các Pháo Thủ; chúng bực dọc, pháo liên hồi, nhưng may mắn kỹ thuật Pháo của chúng còn non kém, nên thiếu chính xác, nêu đêm ngày một vị quan khách nào đó, đứng quan sát sẽ thấy rằng các đơn vị pháo của địch, đang bắn cận phòng cho các pháo đội Mũ Đỏ, chúng có thể bắn trúng vị trí pháo của ta, ngoại trừ chúng bắn góc cao, nhưng từ ngày nhập cuộc chúng tôi không thấy chúng xử dụng kỹ thuật tác xạ này, bởi vậy làm sao chúng có thể bắt ép chúng tôi, thiệt hại lúc này được, chúng tôi đã biết để tiên liệu, địch quân có khả năng cối, các loại súng cối 82 ly hay 120 ly bằng cách bắn, theo hướng chúng nhận diện được, nên chúng tôi rất thận trọng những diểm chúng có thể đặt súng cối, các toán viễn thám của Trinh Sát 2 không cho chúng làm được việc đó, Út Bạch Lan trên sân khấu hấp dẫn chừng nào, Út Bạch Lan (Trương văn Út) Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù của chúng tôi, còn hấp dẫn hơn nhiều, nhiều hơn trăm ngàn lần, tay chân quà quạng, nên ban đêm thích đi mò, mò lần nào trúng lần đó, vì vậy chúng đành bó tay trước một địch thủ trinh sát lợi hại, có lẽ chúng chưa bao giờ gặp phải, chúng tung toán nào ra liền bị trinh sát thộp cổ toán đó, những con Thần Thử rình mỗi rất chính xác, các toán tiền sát viên Pháo Binh của chúng, không một toán nào kịp liên lạc về đơn vị gốc, đều đã bị thộp cổ, các đài quan sát trên cao, không thấy rõ các vị trí Pháo của ta, mà chỉ quan sát được khói súng của ta, lơ lửng bay trên đồi non, vì chúng tôi đóng quân ngang triền đồi, đóng quân như vậy thật gian lao vất vả, đổi lại chúng không thể quan sát được vị trí của ta, đặc công ư chúng chỉ làm trò cười cho chúng tôi, các ổ phục kích tự động, mìn thay người đưa hàng đêm, từng toán đặc công về trình diện bác và đảng, chính vì vậy càng làm, các cấp chỉ huy của chúng giận dữ, điên cuồng, bằng mọi giá phải trả thu, các đơn vị Mũ Đỏ, phải tiêu diệt những đứa con yêu của Tổ Quốc Việt Nam, chính là lúc chúng tôi dương bẫy lên, đón nhận những con thiêu thân, tìm ánh sáng của ngọn đèn trong đêm tối.

Quả thật đây là một chiến trường bất lợi cho đơn vị mới vào vị trí, ấm ớ là tan hàng ngay, địch ở trên cao hơn, các đài quan sát  địch đặt bất cứ chỗ nào cũng nhìn rất rõ cách phối trí của ta, nhiều người ..... lúc đó bình phẩm, tại sao lại để TĐ11ND lên trên tuyến đầu, đơn vị mới bị đau thương tháng trước tại Charlie, nhưng họ không sao hiểu được những toan tính của Mũ Đỏ, nào ai biết TĐ11ND bây giờ không phải như các Tiểu Đoàn tái lập khác, cán bộ nồng cốt là các cán bộ cũ dầy dạn, quân nhân các cấp là những quân nhân từ các đơn vị Mũ Đỏ khác kéo qua, nói một cách rất dản dị, ngay lúc này tân binh TĐ11ND còn ít hơn, các đơn vị Mũ Đỏ khác, mà quân số lại đầy đủ nhất, trong đoàn quân Mũ Đỏ, bây giờ tiểu đoàn này rất mạnh, rất bén nhậy trong  bất cứ chiến trường nào, rất sung mãnh trong bất cứ tình huống nào, cho nên chấp nhận trách nhiệm đánh lừa địch, miếng mồi nhử cho cá cắn câu, nếu không chịu vào hang làm sao có thể tóm cổ được cọp, lần này TĐ11ND không ở tình trạng làm mục tiêu cho Pháo Binh Địch thực tập tác xạ, mà là làm miếng mồi ngon nhử các cấp chỉ huy đang tập đánh vần, để học chiến thuật tứ khoái nhất mãn, của quan thầy Mao Sếng Sáng  phương bắc xua quân vào bẫy, từ trên xuống dưới đồng lòng làm trò hú tim, thích thú dương bẫy đón nhận những đơn vị tinh nhuệ của địch, biết trước một chọi năm, chọi mười nhưng phần thắng phải trong tay ta, vì địch thiếu cấp chỉ huy, chịu suy tính, mà chỉ biết thí quân, coi mạng sống cấp dưới như cỏ cây, miễn sao nhận được tiếng chiến thắng, nhưng ảo vọng đó không đến với Quân Đội Nhân Dân Miền Bắc, một khi các đơn vị Mũ Đỏ đã có chuẩn bị, đây chính là dịp tốt để TĐ11ND rửa hận, cho nên ngay khi tới vị trí đóng quân, TĐ11ND bung rộng sang hướng tây liền chạm địch nặng, các cấp chỉ huy đại đội của TĐ11ND đã dùng hỏa lực pháo binh nhanh chóng và chính xác, hàng trăm đạn pháo bao phủ mục tiêu bọn cán ngố gọi là pháo bầy cộng với lối đánh, tốc chiến, tốc thắng, nhất là trên vai còn mang nặng ý chí phục thù, vừa gặp địch là đoàn thần ưng tung cánh đại bàng, chụp bắt đàn gà con phương bắc, như chúa sơn lâm gặp nai tơ, địch quân chỉ còn hai con đường chọn lựa, một là đầu hàng, hai là phải chết, quá sợ hãi trước một địch thủ vô cùng lợi hại, đơn vị tổng trừ bị của quân đội nhân dân, không còn chọn lựa nào hợp với khả năng hơn,  chọn lựa đường chém vè, là hợp lý nhất của bọn cáo chồn miền bắc, chúng bỏ chạy như đàn vịt bị cáo vồ,  chúng quên rằng các toán tiền sát viên của ta, làm sao bỏ lỡ dịp thực tập này, những pháo thủ đã có đầy kinh nghiệm chiến trường, đưa những loạt đạn CVT chụp lên đầu chúng như hàng trăm hàng ngàn chiếc nơm, chụp xuống đầu đàn cá, bơi trên luồng nước chật hẹp không đường thoát thân, thật tội nghiệp, chúng đành đoạn phải bỏ lại cả xác Tiểu Đoàn Trưởng, cùng máy vô tuyến liên lạc, còn đang liên lạc, món quà đầu tay của đoàn chim Song Kiếm Trấn Ải, cũng khá cao đấy, xin các vị đọc tới đây công bằng mà hiểu cho, dù cho có giết được dăm ba tiểu đoàn trưởng của chúng, làm sao có thể sánh với một Nguyễn Đình Bảo của ta được! Vì vậy ta vẫn còn đau; huống chi chỉ mới thịt được có một tiểu đoàn trưởng, của SĐ325; Không làm sao gặt hái kết quả cao hơn được, thôi có cũng còn hơn không, nhất định chưa chấm dứt tại đây, chỉ tạm an ủi dầu sao chăng nữa cũng là món quà đầu tay, nhờ vậy ta biết được SĐ325CSBV đã có mặt ở bờ nam sông Mỹ Chánh. Trận chiến vừa tạm ngưng, chúng tôi tháp tùng trên thiết quân vận có mặt ngay tại trận địa, để quan sát quân đội nhân dân, đơn vị thuộc SĐ325CSBV, những em bé tuổi cần cắp sách đến trường, nay nằm ngủ ngàn đời tại đây, cuộc chiến này đến bao giờ tàn, tôi thật sự ước mong cho cuộc chiến tương tàn này lắng xuống, để chúng tôi có thể đi thăm những thôn xóm hoang vu từ nam chí bắc, để những em bé xứ bắc không phải nằm chết kinh hoàng tại những nơi dèo heo hút gió như tại đây, tôi cúi xuống nhìn mặt một em có lẽ là cấp chỉ huy của SĐ325. Tôi nói nhẹ nhàng trong lúc vuốt mắt, để em có thể nhắm mắt ra đi.

-Thôi nhé em hãy nhắm mắt ngủ yên, tiếc rằng không có lý lịch, để anh thông báo cho gia đình em biết tin, em đã hy sinh trong cuộc chiến tương tàn, mà chúng ta không có lý do biện bạch, đúng hay sai không là quyền của chúng ta, nhưng miền bắc đã sai lầm mang tai họa, cho miền nam, xua quân xâm lấn, bằng lý do lừa bịp, còn anh và em chúng ta một ngày nào đó, những người còn sống phải ôm nhau, nhìn nhau nhận ra chúng ta cùng giòng giống Tiên Rồng, chúng ta phải thương nhau để mà sống, để cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam. Chúng ta đã phí phạm quá nhiều tinh hoa, của đất nước! Thôi nhé vĩnh biệt em.

Tin tình báo của QĐ1 chúng chuẩn bị đánh Huế quả không sai, nếu đơn vị Mũ Đỏ không có mặt kịp thời, không chừng Huế cũng không hơn Quảng Trị bao xa, nhìn vào tác phong, của những quân nhân vô kỷ luật, ngoài đường phố Huế những ngày qua, mọi người đều ngao ngán cho Huế, ai cũng xót xa cảm nhận rằng, những quân nhân vô kỷ luật này, đang mời mọc niềm bất hạnh cho Huế, cho nên ai cũng phải lo ngại cho số phận của Huế, thêm vành khăn sô cho Huế hay sao? Nếu không có ai đó vực Huế thức dậy, Huế còn phải ngái ngủ, ngơ ngác đến bao giờ?

Lần này Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù ra quân rất cẩn trọng, coi giò, coi cẳng tới cấp chỉ huy thấp nhất trong đơn vị tiền quân, mọi người không muốn thí quân, phải chắc ăn mới đánh, những tên khát máu chuyến này, chắc chắn phải nhận lãnh chua cay, bởi vì trận này đơn vị Mũ Đỏ toàn quyền quyết định, không còn bị bó tay như Tây Nguyên, mọi người đã khóc Nguyễn Đình Bảo, như tiễn đưa người anh em ruột thịt, Đ/T Lịch đã làm hết sức của ông nhưng trên không chấp thuận, ông muốn chứng tỏ cho mọi người thấy tận mắt thế nào là sở trường, thế nào là sở đoản của các chiến binh Mũ Đỏ, ông muốn cho mọi người thấy, cách phối trí quân, linh động, khi ẩn, khi hiện, đoàn quân Mũ Đỏ khi ẩn (ngụy trang kín đáo), khi hiện (tung quân tìm địch) đánh lừa địch quân, làm cho chúng phải rối loạn, không sao có thể dò la cách phối trí quân của ta một cách chính xác được, đoàn quân Mũ Đỏ đôi lúc muốn cho địch quân thấy rõ sơ hở của mình, cố tình che dấu những tụ điểm lợi hại, để dụ cho địch quân phải đánh vì chúng tưởng đây là đơn vị mới bị thiệt hại, mới bị lao đao cho nên rất dễ ăn,  nhử chúng vào vòng tử địa cho Song Kiếm Trấn Ải rửa hận, quả nhiên địch quân....Những cấp chỉ huy lực học chưa qua bậc tiểu học, những tên cai của đồn điền cao su phải suy đoán như vậy, không thể nào khác hơn, sự lầm lẫn đó chứng minh, cho bọn cuồng đồ thấy được chân tướng của chúng, chân tướng của bọn khát máu sinh Bắc tử Nam.

Địch có nội tuyến từ đâu đó, nên rất rõ vị trí đóng quân của các đơn vị Mũ Đỏ, một trăm ngàn lần như vậy, nhưng chúng không thể biết cách phối trí quân của từng đơn vị Mũ Đỏ, kinh nghiệm khi chúng tôi tăng phái cho các Quân Đoàn là chịu đắng cay như nhau, địch quân biết tên từng đơn vị Mũ Đỏ tham chiến, tên cấp chỉ huy Mũ Đỏ, nhưng địch làm sao biết rõ sức mạnh của từng đơn vị Mũ Đỏ được, nên địch đã lầm và đành nhận lãnh thảm bại, nếu chúng biết là các cấp chỉ huy của QLVNCH, không khờ dại như khả năng suy đoán của chúng, nếu chúng suy đoán được các cấp chỉ huy của đoàn quân Mũ Đỏ, có trình độ tác chiến trên cơ chúng, thì chúng phải hiểu rằng: Đơn vị tuyến đầu của Mũ Đỏ, phải là đại diện cho đoàn quân Mũ Đỏ, tất nhiên không phải là đơn vị yếu như chúng tưởng, thì chưa chắc đã có trận thư hùng này.

Cũng vẫn bài ca Tiên Hạ Thủ Vi Cường, chúng pháo vùi dập các đơn vị Mũ Đỏ, nhất là TĐ11ND và các pháo đội, là bị pháo thật kỹ càng nhất, hiện tại Song Kiếm đang Trấn Ải địa đầu, nhưng đây không phải là Charlie, các chiến sĩ Mũ Đỏ được quyền lựa chọn vị trí phòng thủ miễn sao làm tròn phận sự của mình là được, nên vị trí phòng thủ dập dờn như ở ngay bờ sông, thực tế ở cách xa bờ sông, nếu dại dột đóng quân ngay trên bờ sông Mỹ Chánh, đúng là làm mồi cho chiến xa, địch quân thăm dò nhiều lần chắc chắn chúng phải hoang mang, chắc chắn chúng không xác định được tuyến phòng thủ chính của ta, bây giờ các cấp chỉ huy Mũ Đỏ, biết rõ khả năng của các đơn vị nhỏ nhất, từ dưới lên trên phối hợp nhịp nhàng, trung tâm phối hợp hỏa lực của TĐ1PBND Thiếu Tá Đinh Thành Tấn trưởng ban 3, đã sẵn sàng những hỏa tập bên phía bắc và phía nam sông Mỹ Chánh, các hỏa tập đã được các Tiền Sát Viên Pháo Binh phối hợp cùng các Đại Đội Trưởng nằm ngay tuyến đầu, chung ý thiết lập và điều chỉnh kỹ càng, các Pháo Đội Trưởng kỹ thuật cao, kinh nghiệm chiến trường dầy dặn quyết tâm trong trận thư hùng này, nên đã định liệu các loại đạn cho từng hỏa tập, cách bắn làm sao an toàn tối đa cho quân bạn, thiệt hại tối đa cho địch quân, theo đúng ước mong của mọi người, vì cùng đội chung mầu nón Đỏ, cho nên tất cả mọi chiến binh Mũ Đỏ dù là Công Binh, Bộ Binh, Truyền Tin, Pháo Binh, Quân Y hay Trinh Sát cũng đều chung nhịp thở, cùng chung một mối hận, cùng chung một ý chí phục thù, nghìn người như một phải chiến thắng, phải trả thù, tất cả đều nắm tay, dơ cao, với ý chí, quyết chiến, quyết thắng, nếu để họ hô to lời sắt đá này, chắc phải chấn động núi rừng, chim muông thú dữ phải náo loạn, như vậy sẽ bị lộ rõ mục tiêu cho quân thù, đoàn quân Mũ Đỏ âm thầm dơ tay cao, bàn tay nắm chặt, im lặng ngước mắt nhìn trời... Xin trời cao... Xin trời cao, đón nhận ý chí sắt thép này.

Khi LĐ2ND vừa phối trí quân xong, Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù liền bung các toán viễn thám, xâm nhập vào vùng phía bắc của sông Mỹ Chánh, đây chính là con mắt nhìn thẳng vào tim gan địch; các toán viễn thám này, làm địch quân phải điên đầu, chúng bung quân lùng kiếm, nhưng vô ích, đôi khi các toán Viễn thám cho tọa độ điểm đứng, địch quân thiếu gì chuyên viên giải mã, ngay lập tức chúng cho đại quân đến, bao vây điểm đóng quân của Viễn Thám, nhưng than ôi! Chúng không thấy toán Viễn Thám đâu, chúng thấy ngay, một trận hỏa lực, do từng trưởng toán viễn thám thiết lập chụp xuống đầu chúng, thê thảm thay không diệt được tai mắt của Mũ Đỏ, mà lại mang thiệt hại nặng nề cho đơn vị.

Hôm nay cũng là lúc LĐ3ND mới từ An Lộc ra mang theo TĐ2ND, TĐ3ND, TĐ5ND, TĐ2PBND và các đơn vị cơ hữu, yểm trợ của Lữ Đoàn này, TĐ5ND  do Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu chỉ huy, Thiếu Tá Lê Hồng tiểu đoàn phó, TĐ5ND là tiểu đoàn thống thuộc, cơ hữu của LĐ2ND cho nên được trả về đơn vị mẹ và được điều động thọc thẳng vào sườn tây, vì sườn tây còn trống trải, nhất là ngày đầu nhập cuộc, TĐ11ND vừa tiến ra sướn tây chừng vài cây số là đụng độ mạnh ngay lập tức, cái nhọt bên hông cần phải nhổ đi mới được, LĐ2ND tin tưởng có đơn vị địch ém quân đâu đó, hoặc ít nhất cũng là những toán đầu cầu, tình báo của các đơn vị Mũ Đỏ luôn luôn kém hơn các đơn vị địa phương, theo Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn thì chúng chuẩn bị dứt điểm Huế cho nên chúng phải có đơn vị làm đầu cầu sẵn, khi chúng thấy các đơn vị Mũ Đỏ nhập cuộc chúng đành ém quân tại chỗ, quả như vậy khi TĐ5ND thọc sâu vào chân núi, theo hướng tây bắc, không đi theo bờ sông Mỹ Chánh, mà TĐ5ND tiến quân theo dẫy rừng tràm tuy không cao, nhưng đủ che những cặp mắt quan sát của địch quân, quả như vậy dấu tích của loài chồn bắt buộc phải lộ diện, khi đoàn quân Mũ Đỏ vừa bắt đầu lên đồi, là gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của địch quân, hang ổ của chúng bị khám phá, địch xử dụng pháo từ La Vang bắn xuống, từ dẫy trường sơn bắn ra và các loại súng cối từ phía bắc bờ sông Mỹ Chánh bắn lại, làm khó khăn cho TĐ5ND, nhưng với cách phối hợp hỏa lực nhịp nhàng, ăn khớp với nhau, TĐ5ND đã làm chủ chiến trường rất mau lẹ, sau gần hai giờ giao tranh TĐ5ND đã tiêu diệt trọn một đại đội địch, bắt được tù binh, khai thác biết tù binh là trung đội trưởng đặc công, thuộc đơn vị đặc công của SĐ325CSBVN, chúng nhận được lệnh vượt sông Mỹ Chánh, thay một đơn vị khác đã ém quân lâu ngày tại đây, việc thay đổi nhiệm vụ chỉ mới cách nay hai hôm,  nhưng trong đêm chúng nhận được lệnh xâm nhập và điều nghiên nơi đóng quân của TĐ11ND, đơn vị này chưa kịp thi hành thì ngày hôm sau bị TĐ5ND tiêu diệt, ngày kế tiếp chúng pháo dồn dập TĐ11ND và các Pháo Đội, lúc này TĐ3ND do Thiếu Tá Trần Văn Sơn chỉ huy, vào thay thế TĐ5ND ra ngoài nghỉ dưỡng quân, vì Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, chưa được nghỉ dưỡng quân ngày nào, từ chiến trừơng An Lộc, TĐ5ND đã ra Huế và nhập cuộc ngay.

Ngày 13 tháng 5 năm 1972 LĐ2ND chính thức nhận được lệnh tăng cường, thêm một pháo đội 155 ly, Pháo ĐộiA2ND và TĐ3ND; trong ngày TĐ3ND liền được điều động vào thay thế vùng đóng quân của TĐ5ND, lục soát từ vị trí đóng quân của TĐ11ND đến dãy trường sơn dọc theo bờ sông Mỹ Chánh, con đường tình TĐ5ND chưa có giờ lục soát, tức thì TĐ3ND  lại đụng độ với một đơn vị địch không rõ đơn vị, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù gặp nhiều khó khăn, vì những đơn vị súng cối của địch từ phía bắc sông Mỹ Chánh can thiệp liên tục, không khi nào các chiến binh Mũ Đỏ lại chấp nhận cho chúng tung hoành, một mình một chợ như vậy được, chúng được quyền đó, trừ khi ngoài tầm Pháo Binh của ta, hay ta không quan sát được, nhưng lần này chính là lần đầu tiên chúng gặp phải một địch thủ trên chân, bất cứ lúc nào chúng xuất hiện là các loạt pháo TOT (time on target  = nghĩa là cùng một lúc đạn của các pháo đội nổ chụp ngay lên đầu chúng, lần đầu tiên chúng tôi bắt được tài liệu của chúng, chúng gọi các loạt đạn TOT của ta là pháo bầy) đàn gà tre tan nát không kịp kêu tiếng thất thanh, các đơn vị địch từ bộ binh, súng nặng, hay pháo binh gặp thất bại này sang thất bại khác, các chiêu của địch quân tung ra đều bị bẻ gẫy, (khi vào tới La Vang đoàn quân Mũ Đỏ bắt được tài liệu của chúng than rằng: Các đơn vị Ngụy Dù Sài Gòn chúng có sức chiến đấu giống nhau không đơn vị nào hơn, không đơn vị nào kém, cho nên khi bộ đội gặp bất cứ đơn vị nào của Ngụy Dù cũng phải thận trọng) Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tuy chiến thắng, nhưng cũng chưa đáng khích lệ, vì chúng để lại tử thi và vũ khí tất cả đều không khai thác được điều nào mới mẻ, cũng như không có tài liệu để khai thác tin tức, còn lại cách duy nhất là quan sát quân phục, chúng ta chỉ nhận diện được đó là trang bị của các đơn vị bộ đội miền Bắc, địch bỏ chạy sang phía bắc sông Mỹ Chánh, lần này chúng pháo vũ bão hơn, chứng tỏ chúng đã được tăng cưỡng pháo, cũng như đạn dược, chúng đã chuẩn bị một chiến trường mới, ai cũng ước đoán là chúng sắp mở đợt tấn công vào phía nam bờ sông Mỹ Chánh, nếu không như vậy, bộ đội chúng sẽ mất hết tinh thần chiến đấu, vì mấy ngày nay, chúng bị đoàn quân Mũ Đo, cho nếm từ thất bại này, đến thất bại khác, nói chung ngày nào chúng cũng thất bại ê chề, ngày nào chúng cũng nếm mùi chua cay, bây giờ chúng nhận thấy ngay, là biển người của chúng đã bị chặn lại bởi ý chí sắt thép, Cố Gắng của đoàn quân Mũ Đỏ, đặc biệt là lâu nay các hoạt động của chúng ở phía bắc sông Mỹ Chánh hoàn toàn tự do, nay chúng không còn được tung hoành như trước, nếu chúng đi lẻ tẻ như những ngày trước là bị mất tích ngay, nếu đi đông là bị Pháo vùi dập phải tan hàng, chúng cảm thấy mọi hoạt động của chúng, đều bị tai mắt của ta chế ngự, cấp chỉ huy của chúng tìm mọi cách bịt mắt ta, nhưng ai cho chúng làm được việc đó, vì các chiến sĩ trinh sát của ĐĐ2TS/ND, luôn luôn chơi trò hú tim, làm cho chúng phải điên đầu; trận chiến không giới tuyến này, công đầu phải dành cho các chiến sĩ Trinh Sát Nhảy Dù, phải công bằng mà nói như vậy.

Tin tức nóng hổi của hai toán Viễn Thám, thuộc ĐĐ2TS/ND vượt sông Mỹ Chánh bằng đường bộ đi sâu về hướng bắc 7 Km, cho biết những đợt chuyển quân của địch, bị các toán tai mắt của ta, đã xác định được điểm đóng quân của địch, thật chính xác,  mỗi lần như vậy dù đêm hay ngày, chúng cũng được pháo TOT hỏi thăm kỹ càng, những con Thần Thử báo cáo đầy đủ, từng hoạt động của địch, để bộ chỉ huy LĐ2ND dương cái bẫy ra, các anh em Mũ Đỏ biết địch biết ta, chứ không mù lòa như chiến trường Tây Nguyên, địch quân cũng biết điều đó, chúng tung ra nhiều đơn vị tìm kiếm tai mắt của ta, mỗi khi chúng lại gần tai mắt của ta, chúng còn đang ngơ ngác tìm kiếm, liền bị các chiến sĩ Mũ Đỏ thuộc ĐĐ2TS/ND, đưa các loạt Pháo TOT, đập xuống đầu chúng thật mãnh liệt, chúng đành chạy tháo thân, quả thật chiến công, của các toán viễn thám, không phải là nhỏ, nhưng chiến công vô danh này ít ai biết đến, pháo binh mà không có tai mắt, chỉ là pháo binh mù.

 Ai cũng muốn cho TĐ11ND được rửa mặt anh tài trong trận này, tinh thần và quân số lúc này TĐ11ND rất cao, địch quân điều nghiên, kỹ càng, con cháu bác chỉ biết rằng TĐ11ND chính là, đơn vị mới bỏ lại Nguyễn Đình Bảo tại Charlie, nắm ngay lấy cơ hội, chúng cho là ngàn năm một thuở, chúng cho rằng đơn vị mới thiệt hại nặng nề, làm sao có tinh thần chiến đấu được, ngay cả bạn cũng lo ngại; nhưng đây không phải là canh bạc tháu cáy mà là canh bạc chắc ăn, canh xì phé trong tay hai đôi, chỉ có một đôi nhỏ trên mặt, địch thủ ỷ trên mặt có xì,  già, đầm cơ và cẩu bích, liền vung tay táp pi, canh bạc này ta nhất quyết phải thắng không có huề, canh bạc này là canh bạc quyết tâm, không khác canh bạc của đức Trần Hưng Đạo năm xưa (nếu không thắng giặc thề không qua khúc sông này), đây là canh bạc mà tinh thần đoàn quân Mũ Đỏ nghìn người như một.

Trong bàn cờ, hay ngoài chiến trận, ai lừa được đối phương người đó sẽ nắm được, một phần ưu việt trong tay, cổ nhân đã nói biết người biết ta trăm trận trăm thắng tuy nhiên sự thắng bại nhiều khi cũng còn do ý trời,  canh bạc càng lúc càng hung bạo vì địch nhiều vốn, địch pháo tàn bạo không thua gì các mặt trận Hạ Lào, Kon Tum, An Lộc, Khe Sanh.... quả thật ta vốn liếng lúc này xuống thấp hơn địch .

Sau khi làm xong nhiệm vụ, TĐ3ND rút về phía nam của TĐ11ND, không một ai trong Đoàn Quân Mũ Đỏ, muốn để một thất thố nhỏ nào có lợi cho địch, trận này phải chiến thắng một trăm phần trăm, địch quân tung bất cứ đơn vị nào vào trận địa, đều phải bị tiêu diệt, quân ta chỉ được phép thiệt hại nhẹ nhàng, vì các cấp chỉ huy của địch đa số là vô học, làm sao tinh khôn cho được, địch quân chỉ có thể thắng ta khi chúng dùng mười chọi một, tức là chúng thí quân, hay nói cho chỉnh hơn chúng chỉ biết đánh theo lối biển người, lấy thịt đè người, ( cũng như hôm nay chúng đang chấn hưng kinh tế, bằng cách cho con gái Việt, đi làm điếm quốc tế, lấy chồng ngoại quốc, cho con trai Việt đi làm nô lệ lao động, để lấy ngoại tệ, tài cán của bọn lãnh tụ Cộng Sản là như vậy, không khác loài cầm thú, đói phải đi kiếm ăn, không kiếm ăn bằng trí óc sáng suốt, mà kiếm ăn bằng sức lao động, của chính bản thân mình) đúng sách lược của quan thầy Trung Cộng đã dậy dỗ chúng, lấy số đông đánh ít, hay nói khác hơn địch nhiều vốn hơn ta, địch luôn táp pi, còn ta luôn e de, hy sinh một mạng người là đau xót, không một lúc nào ta dám thí quân, có nhiều lúc nếu ta thí ba, lấy mười thì chúng ta thắng ngay lập tức, không một cấp chỉ huy nào của chúng ta dám làm điều bất nhân này, ba mạng người đâu có phải là món tiền lấy từ túi ra, mất đồng này ta kiếm đồng khác, nếu mất một mạng người thôi, vợ con cha mẹ sẽ đau đớn chừng nào, từ từ tính kế rồi chúng ta cũng thắng, thay vì mất ba người, chúng ta tính kế không mất người nào, hay cùng lắm là mất một người, tổn thất càng ít chiến thắng mới vinh quang, chúng ta không một cấp chỉ huy nào muốn chiến thắng trong nghẹn ngào nước mắt, nhưng địch quân chúng chỉ cần chiến thắng, một vài mạng, một vài chục mạng, một vài trăm mạng, ngay cả một vài chục ngàn mạng nào có nghĩa lý gì, miễn sao có tiếng vang là được, mạng con người chúng không quí bằng mạng con vật, đem so sánh với cỏ cây mạng đồng đội của chúng cũng không hơn. Chỉ một trận đánh điển hình trong chiến tranh Việt Nam, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không ngần ngại giết Bốn Mươi Lăm Ngàn Quân (45,000) nội chỉ trong đợt đầu, tấn công Miền Nam, vào dịp tết Mậu Thân, đổi lấy chúng được bọn phản chiến lúc đó tung hô là, chúng đã chiến thắng Tết Mậu Thân.

Trận Mậu Thân đợt một diễn ra từ ngày 29 tháng 1 năm 1968 đến ngày 29 tháng 2 năm 1968 với quân số trên 300,000 người. Chúng tin tưởng chiến thắng phải về chúng, vì Quân Dân Miềm Nam hoàn toàn bất ngờ, chúng tuyên bố đình chiến ba ngày tết, quốc tế biết điều đó, cho nên các đơn vị của ta tin tưởng đình chiến, ít đơn vị chịu đề phòng đúng mức, ngay cả Tổng Thống cũng về Mỹ Tho ăn tết,

Tết Dương Lịch năm đó, để dánh lừa quân dân ta, Nguyễn Duy Trinh ngoại trưởng Bắc Việt còn xin hòa đàm, nhưng cùng lúc đó, Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân Miền Bắc là Trung Tướng Văn Tiến Dũng, đã chỉ thị cho các Tư Lệnh chiến trường, chi tiết kế hoạch tổng công kích tết Mậu Thân, cách thức triển khai các trận đánh, giờ khai hỏa là vào giao thừa,  cùng giờ này con cáo có tên là Hồ Chí Minh sẽ đọc thơ chúc tết trên đài Hà Nội, các tư lệnh chiến trường của chúng được biết đó: Chính là lệnh tấn công, (sau này chúng ta cũng bắt chước Tổng Thống cho lệnh Quân Đội VNCH  tấn công qua Hạ Lào Lam Sơn 719 bằng tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn, đó không phải là một việc làm đáng ca ngợi, vì nó không phải là sáng kiến của chúng ta, mà nó cũng chẳng hay ho gì, để phải bắt chước) chúng chỉ thị thật rõ ràng, dù không nghe được lời chúc tết này, thì giờ khai hỏa cũng vẫn là giao thừa tức giữa đêm 29 tháng 1 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968, nhưng các đơn vị của chúng, mặc dù đã chuẩn bị cả tháng trước, nhưng vẫn không chuyển quân kịp, nên có nơi khai hỏa trễ cả ba, bốn ngày, thậm chí có một nơi là Bạc Liêu trễ 12 ngày, đa số là trễ một ngày. Đúng Giao Thừa Hồ Chí Minh tưởng chắc ăn, đã đọc trên đài phát thanh  Nội bốn câu thơ, đó là lệnh cho các đơn vị Tổng Tấn Công, bốn câu thơ như sau đây:

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua

Thắng trận tin vui khắp nước nhà

Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ

Tiến lên... Toàn thắng ắt về ta

Kế hoạch chính của chúng là bất ngờ, đánh úp các đơn vị ta, dùng đông đánh ít, chúng không ngờ chúng ta phản công kịp thời, nhất là các cơ quan đầu não của chúng ta tại Sài Gòn, những đứa con yêu của Tổ Quốc Việt Nam đã chận đứng kịp thời sức tiến của bọn cuồng đồ, sau cùng trên toàn miền Nam, chúng hoàn toàn thất bại không chiếm được một mảnh đất nào, mà phải bỏ xác tại trận 45,000 quân ; nhưng cả thế giới đều loan tin chúng chiến thắng (tin chiến sự loan đi chúng đã đánh thủng tuyến phòng thủ của ta, và đã đánh vào cả Thủ Đô Sài Gòn), nếu thật sự tết Mậu Thân chúng thắng, thì chiến tranh phải chấm dứt từ đó, vì đó là trận tổng công kích, không phải là trận đánh bình thường.

Lấy tiếng chiến thắng để phải hy sinh mạng sống 45,000 đồng chí của mình, chỉ có Cộng Sản mới làm được mà thôi ! Chúng ta đành chào thua lối đánh giặc kiểu này, trận chiến vừa qua là trận chiến giữa loài thú đội nốt người, với con người chân chính biết lễ nghĩa, nên chúng ta thua là phải, thế kỷ này là thế kỷ chuẩn bị để cho chúng, là những tên buôn dân bán nước vào hỏa ngục.

Như trên đã trình bầy, chỉ nội một trận Tổng công kích tết Mậu Thân đợt một, trong vòng một tháng chúng lùa 45,000 đồng chí của chúng vào chỗ chết, lót đường bước lên Xã Hội Chủ Nghĩa, toàn bộ hạ tầng cơ sở của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hầu như bị tiêu diệt hoàn toàn, chúng không chiếm thêm được một tấc đất nào của lãnh thổ miền Nam, trong khi QLVNCH  chỉ tử thương có khoảng 3,500 người, quân đội Đồng Minh Khoảng 2,800 người. Năm đó lợi dụng thời cơ, sơ hở của ta là tin địch sẽ tôn trọng hưu chiến như đã đồng ý song phương, địch tấn công bất ngờ, trí trá hưu chiến rồi tấn công, chúng hoàn toàn thất bại, chúng tử thương gấp bẩy lần quân Đồng Minh và QLVNCH cộng lại, nhưng chúng đã có bộ máy tuyên truyền tuyệt hơn ta gấp mười lần, chúng ta không biết dùng lời để nâng cao tinh thần binh sĩ, những lúc xuất quân tuyệt nhiên không có, sau trận đánh có buổi văn nghệ rẻ tiền là xong nhiệm vụ, công bố tin tức Quốc Tế không thấy đâu! ! ! Trong khi các đơn vị của chúng không cần dùng ngân quỹ nào hết, khi xuất quân đủ mọi hình thức khích tướng, khi quân về dù là thảm bại thì tại chiến khu cũng có nhưng buổi liên hoan; thất bại ê chề mặc dầu thua cay như vậy! Nhưng với Quốc Tế chúng tung tin chúng đã chiến thắng, cả thế giới tin như vậy ! ! ! Nhờ trí trá tung tin một chiều chúng đã chiến thắng, nhưng xây dựng đất nước phải do tài trí, nên chúng đã thất bại hoàn toàn, vì vậy ngày nay chúng đã đạt được độc quyền sản xuất phụ nữ Việt Nam phục vụ tình dục, cho ngoại bang; thanh niên Việt Nam là tiền đồn lao nô, cho tất cả các nước trên thế giới, kể cả lao nô cho Iraq và các nước hồi giáo khác.

(Xin phép được kể một chuyện vui về tâm lý chiến của ta, TĐ1PBND sau khi hành quân Hạ Lào về được nghĩ một thời gian, sau đó cùng LĐ1ND hành quân giải tỏa Căn Cứ Hỏa Lực Số 5 tại Tân Cảnh, Kontum, nghĩa là sau khi LĐ2ND hành quân giải tỏa Căn Cứ Hỏa Lực Số 6 khoảng một tháng, sau khi chiến thắng dễ dàng tại đây, toàn bộ LĐ1ND được trở về Sài Gòn, một tuần sau chúng tôi lên đường hành quân tại biên giới Việt Miên với LĐ2ND, nhiệm vụ chấm dứt chúng tôi trở về hậu cứ Hoàng Hoa Thám, mỗi đơn vị cấp Tiểu Đoàn đều được các ban văn nghệ tới ca hát  một vài đêm tại hậu cứ, nhận được tin này chúng tôi vô cùng thích thú, ít nhất cũng còn được cấp trên nghĩ tới, không tủi lòng chiến sĩ, đoàn văn nghệ trung ương gửi tới không vui sao được, chắc chắn là phải hay và vui rồi..................Nhưng chúng tôi hoàn toàn thất vọng, khi trình diễn xong mỗi màn hát hay mỗi chương trình kịch nghệ, bên dưới không một tiếng vỗ tay tán thưởng, tôi ngồi hàng ghế trên thấy mà chán chường, tôi cho gọi Thường Vụ Tiểu Đoàn đến, nói nhỏ với anh là phải đi rỉ tai các thường vụ Pháo Đội là phải đi rỉ tai tất cả mọi quân nhân trong Tiểu Đoàn, phải vỗ tay tán thưởng, sau mỗi bài ca hay vở kịch, nhưng rồi chỉ được một hay hai lần là có, sau đó tiếng vỗ tay tán thưởng không còn nữa, vì trình diễn không hấp dẫn không ai có thể vỗ tay tán thưởng được, (Thường Vụ Tiểu Đoàn sau này là Trung Úy Lương văn Ngữ hiện anh và gia đình đang ở nam Cali) sau khi đoàn văn nghệ ra về tôi cho lệnh Thiếu Tá Đinh Thành Tấn Ban 3 Tiểu Đoàn (hiện anh và gia đình đang ở nam Cali), ngày hôm sau tập họp tất cả quân nhân các cấp trong tiểu đoàn, lúc 12 giờ trưa để nghe nhật lệnh, nhớ mang cuốn nhật lệnh ra. Tôi ra về lòng không vui khi thấy Chiến Tranh Chính Trị, Tâm Lý không chỉnh, tại sao lại cho đoàn văn nghệ mà lính không nghe nổi, đến ủy lạo đơn vị như vậy? Thật bôi bác ............tiên trách kỷ hậu trách nhân, tôi lại tự trách mình tại sao đơn vị của mình lại thiếu lễ độ như vậy? Người ta đến giúp không công cho mình mà lại tiếc tiếng vỗ tay, tôi tự nói một mình....Thôi ngày mai tính, nhưng cũng không sao ngủ yên.

Tôi đang ngồi làm việc, Tấn hỏi tôi nhật lệnh về đề tài gì để anh viết, các pháo đội đã sẵn sàng tại sân tập họp Tiểu Đoàn.

Anh cứ mang cuốn nhật lệnh ra đó, khi nào sẵn sàng anh cho tôi biết. năm phút sau tôi ra chào tiểu đoàn do Thiếu Tá Nguyễn văn Thông Tiểu Đoàn Phó trình diện (sau này anh Thông là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3PBND, hiện anh và gia đình đang ở Illinois), tôi cũng đi làm thủ tục của một Tiểu Đoàn Trưởng là đi duyệt qua hàng quân, năm trăm anh em ai cũng nghiêm chỉnh, thương mến nhìn nhau, mà không nghiêm chỉnh sao được, Nhảy Dù có nghĩa là kỷ luật thép, chúng tôi chiến thắng là do kỷ luật, chúng tôi không làm nhục quân đội là do kỷ luật, không khí thật nặng nề vì ai cũng biết tôi đang không vui, nên quân phục chỉnh tề như sẵn sàng đi duyệt binh, tôi trở về vị trí của mình, nói những câu khen thưởng trong cuộc hành quân vừa qua, chúng tôi mặc niệm một số anh em chúng tôi đã nằm xuống tại căn cứ Cờ Lau......Như  Cố Thiếu Úy Nguyễn văn Nhượng Phụ Tá Ban 3 Tiểu Đoàn, (gục xuống ngay sau lưng tôi) tôi khen ngợi từng khẩu đội (lúc đó tôi thuộc tên tất cả các Khẩu Trưởng), tôi nói rất nhiều, tôi biết lúc này mọi người chỉ muốn được nghỉ trưa, giờ nghỉ trưa hai tiếng ngắn ngửi quá, sau cùng tôi phiền trách việc không vỗ tay cổ võ cho ban văn nghệ, trung ương phái đến tối hôm qua, tôi nhắc là dù ca sĩ  hay, dở cũng phải vỗ tay và hô Bis, bây giờ chúng ta phải thực tập đễ nhớ điều này; tôi nói tiếp, Thiếu Tá tiểu đoàn phó đọc bất cứ nhật lệnh nào ông thích, khi ông đọc xong đến câu nhật lệnh hết, kể như ca sĩ trình diễn xong một bản nhạc, anh em tập vỗ tay tán thưởng và la thật to Bis...Bis, xong Thiếu Tá ban 3 đọc nhật lệnh khác anh em lại tiếp tục vỗ tay và la thật to Bis........ Bis . khi nào trong văn phòng tôi thấy vỗ tay đúng mức và la to Bis..Bis.. đúng mức, tôi cho nghỉ trưa, nếu chưa đúng mức thì cứ việc thực tập, xong tôi hỏi?

Tất cả nghe rõ chưa, đồng thanh của năm trăm thanh niên trả lời:

Nghe rõ, vang động cả khu doanh trại thật hào hùng, nhưng nghe như ai oán ! !

Cứ như vậy hết nhật lệnh này tới nhật lệnh khác, sau mỗi khi nghe nhật lệnh hết, là tiếng hô Bis.....Bis và tiếng vỗ tay vang vang, hai vị tiểu đoàn phó và trưởng ban 3, thay phiên nhau đọc nhật lệnh.

Đúng 2 giờ chiều tôi cho tan hàng, ai cũng mồ hôi hễ nhãi, mất giấc nghỉ trưa, tiếp tục sinh hoạt hàng ngày, tức là cả tiểu đoàn không được nghỉ trưa, anh nào anh ấy, khát nước và bụng đói, tiếp tục sinh hoạt buổi chiều; sau ba ngày, trung ương lại cử một đoàn văn nghệ khác xuống, trước giờ văn nghệ trình diễn, tôi nghe rõ tiếng Thường Vụ Tiểu Đoàn la hét ngoài sân tiểu đoàn;

Lần này mà không chịu vổ tay, không chịu la Bis..Bis..là tao sẽ phạt thêm một tuần nghe nhật lệnh buổi trưa, nghe rõ không ! Nghe rõ ! Nhảy Dù Cố Gắng.

Tối hôm đó tôi ngồi trên luôn mỉm cười, không phải vì nghe tiếng la tiếng hét của năm trăm cái miệng như tiếng lệnh vỡ mà cười, tôi nghĩ đoàn văn nghệ này họ sẽ nghĩ bọn này đi rừng nhiều quá, chắc thành người rừng, hay dở cũng là tuyệt vời với họ, nên mới được tán thưởng nhiệt liệt như vậy; không những vậy nhiều anh còn biểu lộ tán thưởng rất cuồng nhiệt, họ biết tôi muốn vậy, nhưng chắc chắn tôi biết họ không muốn như vậy, văn nghệ vừa chấm dứt, anh trưởng đoàn xuống nghiêm chỉnh chào tôi và cảm ơn tiểu đoàn đã cho đoàn một món quà tinh thần vô giá, sau đó anh đưa cho tôi số điện thoại, và nói

Bất cứ lúc nào tiểu đoàn muốn, không cần trên sắp xếp anh sẽ dẫn đoàn tới ngay, tôi nghĩ thầm (thôi đi cha nội, hành hạ chúng tôi như vậy chưa đủ hay sao?)

 

Tuyệt vời hơn, là cả thế giới chiêm ngưỡng quân đội của Cộng Sản Việt Nam, Quân Đội của Nhân Dân như thần thánh, chiến đấu cho nhân dân, vì nhân dân, trong khi Quân Đội Nhân Dân, chính những anh em này thẳng tay tàn sát đồng bào vô tội, chỉ vì chúng nghi ngờ một người tên Quyên hợp tác với Quốc Gia thì trong làng tất cả những ai không may có tên Quyên, Quyền Quyến..v..v.. đều bị tàn sát không nương tay, Hồ chí Minh dậy một câu kinh nhật tụng là giết lầm hơn bỏ sót con cháu bác cứ như vậy thi hành, điển hình nhất là hàng ngàn vành khăn sô cho Huế trong dịp Mậu Thân; Nhưng không một công dân nào trên thế giới biết, cho đến ngày hôm nay chúng vẫn còn tiếng thơm là quân đội Nhân Dân, còn chúng ta vẫn bị lăng mạ thảm thương, đủ thấy tâm lý chiến của hai phe! ! Thật đáng nản! ! Không tin ư ! ! ! Tôi xin quí vị hãy hỏi bất cứ một công dân Hoa Kỳ nào, mà thời kỳ thập niên 60 và 70 có để ý đến chiến trận tại Việt Nam, rất đơn giản và rõ ràng nhất quí vị hỏi: Ông bà nghĩ gì về trận tết Mậu Thân (1968) họ sẽ trả lời vanh vách rằng, Quân Đội Cộng Sản Việt Nam đã chiến thắng, họ chiến thắng mọi nơi, bằng cớ là họ đã chọc thủng phòng tuyến của Quân Đội Quốc Gia và Quân Đội Đồng Minh, đánh vào Thủ Đô Sài Gòn, đánh vào cả Tòa Đại Sứ Mỹ, đánh vào các cơ quan đầu não của chính phủ miền Nam, chiếm đài phát thanh Sài Gòn, chiếm BTTM của quân đội miền Nam Việt Nam, bởi vì họ là quân đội của nhân dân, còn Quân Đội miền Nam hèn nhát không chịu chiến đấu đau đớn chưa? hình ảnh rõ ràng, họ nhìn thấy mọi nơi trên báo chí trên đài. Ôi thảm não làm sao ! ! ! Cho đến nay, ngay cả người lãnh đạo quốc gia Hoa Kỳ và tổng trưởng Quốc Phòng vẫn còn tin mãnh liệt hơn thế, thì hỏi sao công dân trên quả địa cầu này, lại phải nghĩ khác đi.

Một việc so sánh nhỏ bé nữa, là quí vị hỏi cũng những người, mà quí vị vừa hỏi là vụ thảm sát Mỹ Lai, thì ai cũng rõ, ai cũng cho là man rợ, ai cũng cho là tàn ác; nếu ai đó muốn tìm hiểu thêm đi đến Mỹ Lai, Không phải là dễ đến, vì Mỹ Lai xa xôi hẻo lánh. Nhưng nếu quí vị hỏi vụ thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế, ngay tại Cố Đô của chúng ta, nơi thị thành chứ không hẻo lánh như Mỹ Lai, ai muốn đến lúc nào cũng được, vụ thảm sát này, nó còn tàn ác còn dã man gấp trăm nghìn lần, đối với bất cứ một cuộc thảm sát nào trong chiến tranh Việt Nam,(quí vị đã thấy ai trói người bằng cách lấy lưỡi lê chọc thủng bàn tay nạn nhân, rồi dùng kẽm gai xâu từ bàn tay người này sang bàn tay người khác)? Họ trói kiểu đó vì họ sợ những người vô tội này bỏ trốn. Thưa đó là sản phẩm của con cháu Bác Hồ, con cháu bác đã hành động rất (NHÂN TÍNH), xong đem chôn sống tập thể hàng ngàn người như vậy đó quí vị ạ ! ! ! Thì không, không một ai biết đến! ! ! Ôi lỗi này từ đâu vậy hở trời cao đất dầy?...........Tôi không hiểu do sức lực nào mà chúng tôi QLVNCH, còn chiến đấu rất ư là anh dũng cho tới năm 1975, chúng tôi không nhân dịp này trách cứ một ai, chuyện đã qua, điều quan trọng là chúng ta phải nhận lãnh trách nhiệm với đồng bào.....Chúng ta đã không làm tròn phần vụ của từng cá nhân, của từng đơn vị, của từng quân binh chủng; chúng ta đã không bảo vệ cho dân chúng miền Nam, như khi nhập ngũ chúng ta đã hứa.......

Hy sinh vì dân tộc trung thành với Tổ Quốc

...............................................

Phải thân dân, bảo vệ dân và giúp đỡ dân

Tất cả chỉ là huyền hoặc, chưa một vị chỉ huy nào giám nhận lãnh trách nhiệm, nhưng nếu có dịp là đọc diễn văn, nghe nó ai oán làm sao?  Nói cho kêu, thét cho vang........Cũng chỉ là ông bình vôi của cụ Phan Khôi không hơn không kém. ! ! !     

Năm 1977 khi một phóng viên hỏi Tướng Westmoreland về Tướng Võ Nguyên Giáp, tôi không nhớ chi tiết, đại để ông trả lời như sau: Tướng Võ Nguyên Giáp là một tướng tài của Cộng Sản Việt Nam, nếu ông chỉ huy quân đội các nước tân tiến (Đồng Minh) thì chỉ một trận thôi là ông ta phải ra tòa án quân sự. Các trận đánh mà ông ta thắng toàn bằng phương pháp giết đồng đội của mình (Thí Quân), không có trận nào ông ta thắng bằng thao lược (Mưu Trí) của một vị tướng lãnh.

Nhưng đoàn quân Mũ Đỏ tại Trị Thiên, màng lưới phòng thủ chuẩn bị mỗi ngày thêm chu đáo, trên dãy đồi Trần văn Lý, Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng tiên đoán TĐ11ND sẽ bị tấn công nay mai, ông điều động hai đại đội của TĐ3ND do Tiểu Đoàn Phó chỉ huy tăng cường sườn tây cho TĐ11ND,  Trong ngày tháp tùng theo phái đoàn quan sát tại chỗ, chúng tôi tới TĐ11ND bằng thiết quân vận dưới cơn pháo, đoàn quân Mũ Đỏ vẫn còn bất lợi vì nguyên sườn phía tây tức dẫy trường sơn vẫn trong tay địch, nên địch quân đặt các đài quan sát bất cứ chỗ nào tại các cao địa, ngay cả ở lưng chừng sườn núi cũng vẫn quan sát được mọi sự di chuyển của ta, thiết quân vận di chuyển tạo ra đám bụi nhỏ bay lên, mỗi khi chúng quan sát được như vậy là chúng liền gọi pháo của chúng can thiệp ngay, cũng may pháo của chúng chưa chính xác cho lắm, hơn nữa ta di chuyển dưới các đường thông thủy, hay bên  phía đông hoặc đông nam sườn đồi làm chúng khó quan sát, địch pháo quá nhiều làm cho mọi người cũng có phần lo ngại khi Thiếu Tá Lê văn Mễ bị thương phải di tản vì đạn pháo,(cái huôn của tiểu đoàn trưởng TĐ11ND trúng đạn pháo) nhưng trong TĐ11ND ngoại trừ các cấp chỉ huy, còn lại vẫn được giữ kín tin này, Đ/T Lữ Đoàn Trưởng nhấn mạnh cho các cấp chỉ huy: Gồm cả năm đại đội trưởng trên tuyến đầu là, (địch quân sẽ còn pháo mãnh liệt hơn, phải coi lại hầm hố cá nhân của thuộc cấp, phải ngụy trang cho tinh khôn và điều quan trọng nữa là địch quân sẽ tấn công tuyến đầu của ta, bằng cấp trung đoàn (thiết đoàn) chiến xa với lực lượng tùng thiết hùng hậu, ít nhất cũng là trung đoàn bộ binh, cho nên phải tiên liệu đường tiến của chiến xa địch, đường tiến quân của bộ binh địch, trong trường hợp tùng thiết cũng như không tùng thiết, tạo các chướng ngại vật để chiến xa cũng như bộ binh địch, phải di chuyển theo ý của chúng ta, phân phối hỏa lực chống chiến xa, tập dượt lại cách đánh chiến xa, giảng giải cho mọi cấp biết yếu điểm của chiến xa, ông kết luận với các cấp chỉ huy chắc như Đinh Đóng Cột là: chúng ta phải thắng trận này, nếu không các anh và tôi phải TỰ XỬ , đã đội trên đầu chiếc nón mầu ĐỎ chúng ta không được quyền làm hoen ố nó, không được phép làm tủi nhục linh hồn các anh chị em của chúng ta đã hy sinh để tô thắm nó, các anh có nghe rõ không), nơi họp không xa tuyến đầu của địch, nên tất cả im lặng nhìn nhau rồi cùng nắm tay vững chắc đưa ngang đầu tỏ lòng cương quyết, mọi người chia tay nhau trong niềm tin chiến thắng, với ánh mắt căm hờn, hận loài giặc hại dân hại nước, tuy không nói nhưng nhủ thầm giữ trọn lời thề son sắt với quê hương, với đơn vị; nếu không thắng trận này thề không trở về nhìn mặt anh em, với ý chí quyết chiến quyết thắng như vậy, chúng ta chỉ còn chờ ngày giờ đến, các đơn vị ban ngày không sao lãng tuần thám, nghiên cứu từng tấc đất từng sườn đồi, địa thế nào chiến xa có thể qua; chỉ cần quan sát cách làm việc của các tiểu đội trưởng, các trung đội trưởng, chúng ta hiểu ngay cấp chỉ huy đã chuẩn bị chiến trường chu đáo, địch quân sẽ phải tấn công theo ý của ta, chúng sẽ tiến quân đúng theo những gì chúng đã học, thiết giáp phải có xạ trường, chúng ta sẽ tạo đường tiến quân có xạ trường tốt cho chúng, bộ binh phải có địa hình, chúng ta sẽ tạo địa hình cho chúng, cấp chỉ huy của chúng nếu tinh khôn phải hiểu rằng: Chúng tôi đang đón chúng với tất cả tinh thần quyết chiến, quyết thắng; nên chuẩn bị thật chu đáo, chúng sẽ được tiếp đón thật tưng bừng, thật hùng hậu, từng tấc đất chúng sẽ di chuyển qua, đều được lo dọn dẹp chu đáo, để bắt buộc chúng phải dàn quân và tiến theo ý của các Thiên Thần Sát Cộng.

Ngày 14 tháng 5 năm 1972 lúc này Đại Tá Lịch hơi lo ngại vì Thiếu Tá Mễ bị thương, tuy không nặng nặng lắm nhưng cần phải di tản, mặc dầu Thiếu Tá Nguyễn văn Thành Tiểu Đoàn Phó rất vững vàng trên mọi phương diện, chỉ huy chiến trận cũng như phối hợp hỏa lực, hiện đang tạm thời thay thế Thiếu Tá Mễ , nhưng ông sợ yếu tố tinh thần, nếu như các chiến sĩ Mũ Đỏ thuộc đơn vị Song Kiếm Trấn Ải biết được cấp chỉ huy của họ bị thương, liệu lòng họ có xao xuyến hay không? Ai cũng tin dị đoan thầm lo ngại tiểu đoàn có huôn cấp chỉ huy toàn bị vì pháo........Tốt nhất không nên cho phổ biến tin này.

Ngay sáng hôm đó TĐ1PBND Thiếu Tá Tấn trình bầy kế hoạch hỏa yểm với BCH lữ đoàn rất tỷ mỷ, rõ từng chi tiết các loại đạn cần dùng cho mỗi mục tiêu, khi có chiến xa địch xuất hiện, hay khi không có chiến xa địch, kinh nghiệm xương máu tại Hạ Lào, Thiếu Tá Tấn cho biết khi yểm trợ tái chiếm đồi 31, nơi đặt BCH của LĐ3ND tại chiến trường Hạ Lào tức hành quân Lam Sơn 719 trung tâm phối hợp hỏa lực của TĐ1PBND là đơn vị duy nhất điều động hỏa lực yểm trợ, trong vùng Hạ Lào, khi đồi 31 không do ta làm chủ nữa, sáng ngày 28 tháng 2 năm 1971 cánh quân của Thiếu Tá Trần Hữu Phú ( có bài viết về Hạ Lào nói rằng đây là cánh quân của TĐ9ND như vậy là sai hoàn toàn, có lẽ theo suy luận, vì sau trận Hạ Lào Thiếu Tá Trần Hữu Phú là tiểu đoàn trưởng TĐ9ND) Thiếu Tá Trần Hữu Phú đang từ phòng 2 SĐND được điều động thay thế Thiếu Tá Đào Thiện  Tuyển chức vụ Tiểu Đoàn Phó TĐ8ND, tại vùng tập trung Lao Bảo trong đêm chuẩn bị vào Hạ Lào, một phi vụ Skypot của Hoa Kỳ đánh lầm vào BCH/ TĐ8ND làm Thiếu Tá Đào Thiện Tuyển bị trọng thương, khi địch tràn ngập căn cứ 31 bằng chiến xa và bộ binh, cũng với cách điều quân cố hữu của Võ Nguyên Giáp là dùng biển người uy hiếp căn cứ này. Hai đại đội TĐ8ND do Tiểu Đoàn Phó TĐ8ND cùng một Thiết Đoàn chiến xa tiến lên đồi 31 để trợ lực cùng đơn vị thuộc LĐ3ND, cách đồi chừng 2 hay 3 cây số phải dừng lại bởi một Trung Đoàn địch chận đánh, tiếp theo từ đồi 31 năm chiến xa địch tiến ra với tùng thiết rất đông, trông như địch từ doanh trại của mình tiến ra, từ căn cứ hỏa lực A Lưới, Trung Úy Nguyễn Cẩn Ngọc,
sau này là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó TĐ4PBND hiện đang ở Houston, Texas  sĩ quan trong BCH/TĐ1PBND đã dùng  viễn kính lưỡng mục quan sát rất rõ, chiến trận giữa cánh quân của TĐ8ND tùng thiết cho Thiết Đoàn chiến xa của ta, đã đụng độ với Trung Đoàn Địch; rồi cũng thấy rất rõ 5 chiến xa địch từ căn cứ 31 tiến ra, cùng đoàn tùng thiết của chúng, trông như năm con cua từ từ bò ra và có một đàn kiến đen bu chung quanh (từ căn cứ A Lưới đến Căn Cứ 31 khoảng cách chừng 8 cây số đường chim bay), BCH/TĐ1PBND quyết định phải đánh tan đàn kiến này, có như vậy mới cô lập được Thiết Giáp địch, nên TĐ1PBND đã điều động 2 pháo đội 105 ly và 2 pháo đội 155 ly, tạm thời mỗi pháo đội chỉ để lại một trung đội yểm trợ trực tiếp, cho cánh quân TĐ8ND và thiết đoàn, vì những đơn vị này đã có yếu tố điều chỉnh, còn dùng tất cả hỏa lực còn lại của mình, để tiêu diệt đoàn quân tùng thiết và chiến xa địch,  quyết định thi hành tác xạ ngay lập tức, Tr/U Ngọc đã điều chỉnh các loạt đạn trúng ngay đoàn chiến xa địch, khi bắn hiệu quả dùng đạn nổ với đầu nổ  CVT, xen lẫn đạn lân tinh (white phosphorus) bắn vào đoàn chiến xa có tùng thiết này,  vì khi thuyết trình hành quân BTL/QĐ1 cho biết chiến xa T54 của địch có khả năng mạnh hơn chiến xa của ta, Trung Tá Thiết Đoàn Trưởng rất ngại phải chạm trán với chiến xa địch, nên đã yêu cầu Pháo Binh phải chặn ngay chiến xa của địch lại, và TĐ1PBND đã làm được việc đó, không một chiến xa nào của địch giám xuất hiện nữa bốn pháo đội, mỗi Pháo Đội mới bắn chừng 10 loạt đạn, trộn lẫn như trên đã nói, thì ba chiến xa địch phát hỏa ngay tức thời, hai chiếc không điều khiển loạng quạng đâm xuống sườn đồi, đoàn tùng thiết của địch vì đang di chuyển không có hầm hố, nên hầu như bị tiêu diệt hoàn toàn, sức tàn sát của đạn nổ dùng với đầu nổ CVT, vô cùng hữu hiệu, đối với quân di chuyển ngoài trời, lúc đó TĐ1PBND cho lệnh bắn CVT là có ý tiêu diệt đoàn quân tùng thiết, hoàn toàn không biết tại sao chiến xa địch bốc cháy ngay lập tức, Thiếu Tá Tấn trình bầy:
Nếu chiến xa dịch bị cháy vì đạn lân tinh thì cũng phải có thời gian ít phút, không thể nào bị cháy ngay như vậy, chúng tôi nghĩ rằng do đạn CVT, nhưng khổ nỗi không có ai lại đó để quan sát, những chiến xa của địch bị cháy là do nguyên nhân nào? khởi điểm cháy từ đâu?Cho nên lần này ban 3 TĐ1PBND muốn chứng minh, là đạn nổ với đầu nổ CVT có khả năng tiêu diệt chiến xa địch. Địch quân đã mắc phải lỗi lầm rất lớn, là di chuyển ban ngày để Quan Sát Viên Pháo Binh thấy, từ khi chúng tôi mang danh là Pháo Thủ, bất cứ mục tiêu nào, nếu trong tầm Pháo Đội, mà chúng tôi quan sát rõ mục tiêu, thì mục tiêu đó phải bị thiệt hại hay bị tiêu diệt ngay lập tức, mà chúng tôi nghĩ đây là sự việc rất bình thường, không có gì là xuất sắc, vì bất cứ một sĩ quan nào đã học xong phần căn bản pháo binh, cũng phải làm được những việc như chúng tôi đã làm, nó dễ dàng còn hơn trai gái đã ưng thuận nhau sau đó 4 pháo đội mới quay về yểm trợ cho cánh quân của TĐ8ND, khi chấm dứt hành quân Hạ Lào, ban ba TĐ1PBND có làm tờ trình này lên BCHPB/QLVNCH  và Phòng 3 BTTM/QLVNCH theo đúng thủ tục hệ thống quân giai về kết quả không ngờ này, nhưng không ai tin như vậy cả, cho rằng đó là do không quân đánh, hay một đơn vị nào đó đánh, Pháo Binh muốn hạ chiến xa phải dùng đạn chống chiến xa lời phán ra như vậy cũng đúng thôi, đạn nổ không làm chiến xa địch hư hại được, sách vở nói như vậy mà, nếu như vậy đâu cần kinh nghiệm chiến trường nữa! ! ! Còn đạn lân tinh có thể làm chiến xa cháy, nhưng không hữu hiệu nhiều như vậy, không nhanh như vậy, nếu đạn White Phosphorus làm cháy chiến xa thì cũng ít nhất là năm phút sau mới cháy được; do không quân ư, lúc đó trên bầu trời Hạ Lào không có bất cứ loại máy bay nào xuất hiện, không có bất cứ một hỏa lực nào tấn công chiến xa địch ngoài pháo binh, không lẽ chiến xa của địch bị ma vật, mà cấp trên không tin cũng phải, tờ trình không nói rõ tại sao chiến xa địch cháy, sự thực chúng tôi có ai biết đâu mà trình, chỉ là quan sát sao nói vậy, ước mơ của chúng tôi lúc làm báo cáo, là hy vọng cấp trên có những vị có một kinh nghiệm nào đó, tìm được nguồn gốc là tại sao chiến xa địch bị cháy, lý do nữa theo nhiều người nghĩ, trên cũng khó tin cho được, vì năm 1971 tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù cũng vẫn là Tiểu Đoàn Trưởng Pháo Binh non nớt nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cho nên mọi người đều cho rằng ngựa non háu đá, ước mong của TĐ1PBND là phổ biến kinh nghiệm chiến trường, thấy sao báo cáo vậy, để tất cả chúng ta QLVNCH bớt đổ máu, nhưng ước mơ này bị dập tắt, không một làn khói mờ để lại, dầu gì chăng nữa với kinh nghiệm tại chiến trường, TĐ1PBND vẫn tin chắc là đạn nổ với đầu nổ CVT, có một sức nào đó cho nên đã tiêu diệt chiến xa địch, trong lệnh tác xạ chỉ cho bắn, mỗi pháo đội có 4 trái đạn white phosphorus mà thôi, xử dụng loại đạn nổ với đầu nổ CVT  nhiều gấp bội, trên bàn nghiên cứu có hình chiến xa địch do phòng II BTTM phổ biến, không có chú thích là thùng chứa nhiên liệu của chiến xa địch tại đâu? (sau chiến thắng của TĐ11ND. Ngày14 rạng ngày 15 tháng 5 năm 1972; Chính Sĩ Quan của TĐ1PBND leo lên chiến xa bị cháy do đạn Pháo Binh, còn đang nóng hổi, với mục đích  để tìm nguyên do chiến xa địch bị cháy, lý do muốn biết sự thực như vậy, nên  mới kiếm ra được đáp số đứng đắn nhất, nhờ vậy ban 3 TĐ1PBND lại báo cáo nữa, nhưng lần này tỷ mỷ hơn có nguyên do tại sao chiến xa địch cháy,  sau đó mới có văn thư của BTTM phổ biến là đạn nổ đầu nổ CVT của PB có thể chống chiến xa vì thùng xăng của các chiến xa địch thiết trí trên nóc xe, mảnh đạn  CVT chém trúng thùng xăng là phát hỏa ngay, nguyên do như sau:

Thứ Nhất vì sức nóng của mảnh đạn khi chém trúng thùng xăng, có thể làm xăng gặp nhiệt do mảnh đạn phát ra  mà phát hỏa, rất nhiều nhà tranh, hay cỏ khô trong rừng bị pháo binh đốt cháy bởi đạn nổ ;

Thứ Hai  sức ma sát của mảnh đạn khi chém vào vỏ thùng xăng có thể xẹt lửa bén vào xăng làm phát hỏa;

Thứ Ba mảnh đạn chém vào thùng xăng, làm xăng chảy xuống máy xe đang chạy có sức nóng làm xăng phát hỏa; hơn nữa thùng xăng  lại có diện tích lớn, rất dể trúng mảnh đạn, mỗi trái đạn có hàng trăm mảnh chém xuống, mỗi lần bắn như vậy, đều bắn hàng trăm trái đạn, thùng xăng không có sắt dầy che chở, bất cứ mảnh đạn lớn nhỏ đều có khả năng làm thủng thùng xăng, bài này viết lại cho vui, vì chúng ta đâu còn đánh ai nữa đâu? Trong huấn lệnh cũng không có tưởng thưởng vấn đề này. Nhất là không còn tranh giành ảnh hưởng với ai cả, may ra con cháu đón nhận, hy vọng sẽ được tha thứ tội ngông cuồng này ? ! ?.

Áp dụng cho trận chiến này, khi phát hiện ra địch quân có chiến xa hay không  TĐ1PBND cũng sẽ điều động 4 pháo đội 105 ly (sau này là 5 pháo đội) và 1 pháo đội 155 ly bắn đạn nổ với đầu nổ CVT, để ngăn chặn và tiêu diệt địch quân đang di chuyển với nhiệm vụ tùng thiết, vì đạn nổ với đầu nổ CVT sẽ vô cùng hữu hiệu đối với địch quân đang di chuyển, hay địch quân có hầm mà hầm không có nắp an toàn; Nếu là mục tiêu có chiến xa, thì đạn nổ với đấu nổ CVT sẽ làm cho chiến xa địch không còn quan sát xa được, vì tất cả chiến xa phải đậy nắp lại để tránh bị sát hại, quyết định bắn đầu nổ CVT, đồng thời kiểm nhận hiệu quả của đầu nổ CVT, đối với chiến xa địch hữu hiệu như thế nào? Cũng may là vì Lữ Đoàn hoàn toàn đồng ý với cách xử dụng hỏa lực của trưởng ban 3 TĐ1PBND.

Khi vào vùng trách nhiệm, bộ chỉ huy Lữ Đoàn điều động hai cây hỏa tiễn TOW, đây là loại hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất và hữu hiệu nhất, của quân đội Hoa Kỳ thời bấy giờ, vì khai hỏa là phải trúng chiến xa địch, trái hỏa tiễn bắn ra có điều khiển để phải trứng mục tiêu, dù mục tiêu có phát nhiệt hay không, cơ xưởng sản xuất nghiên cứu và sáng chế ra đầu đạn của hỏa tiễn đi theo điều khiễn của ống kính nhắm, không những vậy ống kính hồng ngoại tuyến có thể nhìn ban đêm dễ dàng, ống kính nhằm vào đâu là đầu đạn đi theo vào đó, chiến tranh Iraq loại hỏa tiễn này vẫn còn dùng, cùng một Chi Đội chiến xa M41 và hai Chi Đội Thiết Vận Xa tăng cường cho TĐ11ND, như vậy hỏa lực của tuyến đầu rất dồi dào, phần chuẩn bị chiến trường cũng tạm gọi là chu đáo. Ngay sau khi trình bầy kế hoạch hỏa yểm cho bộ chỉ huy Lữ Đoàn, TĐ1PBND đề nghị xin thêm một pháo đội của TĐ2PBND đang tại vùng tập trung vào vùng, để tăng cường hỏa lực cho LĐ2ND, được trên chấp thuận ngay, lúc đó LĐ1ND cũng như LĐ3ND chưa nhập cuộc, vì vậy chiều ngày 14 tháng 5 năm 1972 TĐ1PBND lại được tăng cường thêm một Pháo Đội nữa, như vậy nếu địch quân dại dột tấn công TĐ11ND, chúng sẽ phải nhận ngay phút đầu tiên là 30 trái đạn 105 ly và 6 trái đạn 155 ly dáng xuống đầu chúng, quả là một trận địa pháo vô cùng mãnh liệt, ít khi xẩy ra trên chiến trường miền Nam, (những tác xạ này, đạn khói white phosphorus ban 3 TĐ1PBND không dùng, vì tin rằng không hữu hiệu lại còn làm mất yếu tố nhanh chóng, chính xác, đạn khói phải bắn với yếu tố khác, khi cùng bắn chung với dạn nổ làm cho các pháo thủ dễ lầm lẫn) tất cả mục tiêu tiên liệu, vì chúng tôi có thời gian, nên đều đã điều chỉnh tác xạ trước, không thể nào địch quân có thể ngóc đầu lên được, khó có thể có sơ hở được, vì chúng tôi chuẩn bị rất kỹ càng, địch quân phải tiến vào trận địa theo ý của chúng ta, phối hợp nhịp nhàng với nhau từ trước khi chiến sự xẩy ra, cho nên khi chiến sự xẩy ra nhiệm vụ ai người đó làm, không còn phải xin lệnh hay hỏi ý kiến mất thì giờ vô ích, mỗi Tiền Sát Viên Pháo Binh có một Pháo Đội yểm trợ trực tiếp, nói cho rõ ràng hơn mỗi đại đội Nhảy Dù có một pháo đội yểm trợ trực tiếp, cho nên khi các TSV/PB thấy địch là có đạn Pháo Binh đến ngay, không phải đợi chờ như những chiến trường khác, Ngay cả tại Hạ Lào cũng không được dồi dào như vậy, tại chiến trường Hạ Lào bốn TSV/PB và một Sĩ Quan Liên Lạc cũng chỉ có một pháo đội yểm trợ trực tiếp mà thôi. Địch quân dù có nội tuyến cũng không hiểu được cách điều động hỏa lực này, cấp chỉ huy của chúng không biết người biết ta, chỉ biết đánh biển người, nên chúng gặp ngay biển Hỏa Lực vì vậy chúng phải thất bại ê chề là chuyện rất bình thường. Tại Triều Tiên năm 1952 khi Trung Cộng dùng biển người đánh với quân đội Đồng Minh do Hoa Kỳ chỉ huy, danh tướng Mc Arthur đã tuyên bố một câu để đời  nếu địch quân dùng biển người tôi sẽ dùng biển lửa để thiêu sống chúng  quả vậy khi Trung Cộng dùng hàng quân đoàn xung phong để tiêu diệt quân Đồng Minh liền gặp ngay những dàn súng phóng hỏa, tiêu diệt trọn bộ, chết thật thê thảm, Cộng Sản Việt Nam là đệ tử của Mao nên nhất nhất theo đúng chiến thuật của Mao, đầu óc của chúng không suy luận được, nên chỉ biết áp dụng chiến thuật của quan thầy mà thôi.

Tối ngày 14 rạng ngày 15 tháng 5 năm 1972 (tức nhằm ngày mồng 2 rạng ngày mồng 3 tháng 4 năm nhâm Tý) địch quân chọn những ngày đầu tháng cho nên trời tối có lợi cho cuộc chuyển quân của chúng, ta khó quan sát thấy địch, quan thầy (Nga-Hoa) dậy như vậy, chúng có biết đâu, mỗi tình huống một khác, chính trời tối cũng khó khăn di chuyển, nếu bật đèn xe thì chỉ có nước sớm trở thành âm binh về gác xác Bác nơi âm ty, chính trời tối lại có lợi cho ta, địch không thông thuộc địa thế, còn ta thì từng Mũ Đỏ thông thuộc địa thế đóng quân của mình, đó chính là vị trí của ta chọn lựa. Nhờ tai mắt của ta bên kia bờ sông Mỹ Chánh, quan sát được địch chuyển quân, ta kết luận có nhiều dấu hiệu địch quân sẽ tấn công TĐ11ND; lý do nữa là địch bị thiệt hại quá nhiều, do đoàn quân Mũ Đỏ gây cho chúng liên tục những ngày qua, chúng phải trả thù, chúng phải lập chiến công, bắt buộc chúng phải tấn công để lấy lại uy thế, cho dù cấp dưới của địch còn hoang mang, cũng phải thi hành lệnh một cách mù quáng. Còn ta nắm vững tình hình, cho nên mọi người đều thở ra nhẹ nhõm, tất cả đã sẵn sàng trong thế chờ địch, địch như con thú hoang đang tiến vào cạm bẫy của ta; ai có nhiệm vụ thì thức, ai không có nhiệm vụ vẫn có thể ngủ, như những ngày khác. Nhưng hôm nay ai cũng nôn nóng khó có thể ngủ được, ban 3 TĐ1PBND cho lệnh kỹ càng 5 Pháo Đội Trưởng 105 ly và một Pháo Đội Trưởng 155 ly, rõ ý định điều động hỏa lực của trung tâm phối hợp hỏa lực, chúng tôi đang muốn tìm xem tại sao đạn nổ với đầu nổ CVT (control variable time) lại tiêu diệt được chiến xa địch, chúng tôi rất vui mừng vì các pháo đội trưởng đều một lòng, muốn tìm nguyên do đạn nổ với đầu nổ CVT lại có thể tiêu diệt chiến xa, lúc này ai cũng ao ước cho địch tấn công, nếu không may địch không tấn công thì đúng công của chúng tôi chuẩn bị thành công dã tràng, chúng tôi chỉ ao ước sao, thấy cho được chiến xa địch bị cháy, vì bất cứ nguyên do nào, để tìm hiểu và học hỏi, chúng tôi có được xem hình chiến xa địch, nhưng không biết là thùng chứa nhiên liệu của chiến xa địch lại nằm ngay trên nóc xe, vì hình chỉ phổ biến cho có lệ, ngày đó hình phổ biến bằng quay ronéo nên trông nó thê thảm lắm, không như hình của computer ngày nay đâu, không một chú thích về nơi đặt thùng xăng của chiến xa, nên chúng tôi vẫn tin tưởng rằng chiến xa của địch được thiết trí thùng xăng cũng nằm ở vị trí  ngang hông như chiến xa của ta, nếu chúng tôi biết thùng chứa nhiên liệu nằm trên nóc xe, chúng tôi đă có kết luận nguyên do tại sao chiến xa của địch bị cháy tại Hạ Lào; khi đạn nổ với đầu nổ CVT bắn đi, từ đầu nổ sẽ phát ra chùm luồng sóng điện, khi luồng sóng điện này gặp bất cứ chướng ngại vật nào, dù là lá cây, ngay cả mưa nặng hột hay sương mù dầy đặc, máy bay, đàn chim...Nói chung bất cứ vật gì mà luồng sóng điện của đầu nổ chạm phải, lập tức có tín hiệu dội ngược trở lại và liền kích viên đạn nổ cách chướng ngại vật  là 20 thước (mét) viên đạn nổ ra, theo sức phóng tới của viên đạn, nên tất cả mảnh đạn không tạt ngang, mà mảnh đạn lại phóng tới chụp vào mục tiêu, như một cái nơm chụp bắt cá của ngư phủ vậy, cho nên rất hiệu quả, vì một viên đạn có hàng trăm mảnh đạn đánh vào một vùng thâu nhỏ, chừng một vòng tròn 50 thước đường bán kính, hàng trăm viên đạn pháo binh bắn cùng lúc thì hiệu quả vô lường, mảnh đạn pháo binh khi nổ ra lại rất nóng đễ gây phát hỏa, không những vậy nếu chém vào sắt thì sẹt ra một tia lửa ngay, nếu chém trúng thùng nhiên liệu, nhiên liệu chảy xuống máy chiến xa đang nóng cũng phát hỏa, (kỹ thuật tác xạ pháo binh nghiêm cấm không được bắn đạn nổ với đầu nổ CVT khi trời mưa, trời có sương mù, qua mức chắn, hay khi bắn cho quan sát viên phi cơ) cho nên một máy bay dân sự rớt ở biển Đại Tây Dương gần Nữu Ước, cả máy bay không ai sống sót không kiếm ra mảnh máy bay, hay hộp đen của máy bay, người ta nghi ngờ do hỏa tiễn của Hải Quân Hoa Kỳ thực tập làm hại máy bay này, cũng không phải là điều không đáng nói tới.

Trở lại mặt trận bờ nam giòng sông Mỹ Chánh, hay mặt trận trên dãy đồi Trần văn Lý, một toán viễn thám của ĐĐ2TSND cho biết có đoàn chiến xa địch, di chuyển về hướng nam còn cách sông Mỹ Chánh khoảng 6 Km, vì toán viễn thám ở cách xa đường di chuyển của chiến xa địch, cho nên toán viễn thám không xác định được vị trí của chiến xa địch, cũng như không rõ loại chiến xa, bao nhiêu chiến xa, toán viễn thám nằm trên đất của địch, một toán nhỏ so với lực lượng địch nên không giám di chuyển nhiều; lúc đó là 2:00 giờ sáng ngày 15 tháng 5 năm 1972, nhận được tin chúng tôi cho lệnh vùi dập chúng ngay, nhưng mục tiêu này chỉ trong tầm 2 pháo đội 105 và pháo đội 155, sau khi bắn xong địch quân im lặng, sau đó chúng lại tiếp tục di chuyển, pháo của chúng đáp lễ các pháo đội của ta nên mọi việc đã rõ, chúng tôi đang gây khó khăn cho chúng nên chúng trả đũa, chúng tôi vẫn tiếp tục bắn chặn theo đường chúng có thể di chuyển, nhưng không ghi nhận được kết quả, khi một đại đội của TĐ3ND nghe thấy chiến xa địch di chuyển rất đông bên kia bờ sông, cũng không xác định vị trí địch vì chỉ nghe tiếng nổ của động cơ mà đoán chừng thôi; lúc 4:00 giờ sáng, lúc này đa số các cấp chỉ huy còn trên hệ thống chỉ huy, ngay lập tức 6 pháo đội khai hỏa, ba trăm cái nơm sắt thép chụp xuống mục tiêu, sau đó chiến trường hoàn toàn im lặng, chiến xa địch im hơi nhưng pháo địch phản ứng dữ dội hơn trước, ba pháo đội gần tuyến đầu bị ảnh hưởng pháo của địch nhiều nhất, mọi người đều cảm nhận thấy trận giặc sắp khai màn, chắc chắn có chiến xa tham dự, sẽ trong đêm nay thôi, tất cả anh em trên tuyến đầu, đều nô nức đợi chờ địch đến tấn công, cho khỏi bõ công chuẩn bị chiến trường lâu nay, không có dịp này khó có dịp may khác trả thù cho Charlie được, mọi người đều tỉnh táo, các Đại Đội trưởng kiểm soát lại tuyến phòng thủ lần chót cho an tâm hơn, nhắc nhở lại các ổ chiến đấu khi có chiến xa xuất hiện, chỉ khai hỏa khi chắc chắn chiến xa địch bị tiêu diệt, nhắc lại cho từng quân nhân biết tầm nhìn của chiến xa rất hạn chế, chúng chỉ thấy ta khi ta khai hỏa không trúng chiến xa địch, tất cả anh em Mũ Đỏ các cấp, trên tuyến đầu đã được huấn luyện nhuần nhuyễn, ai cũng đều nắm vững kỹ thuật tiêu diệt chiến xa địch,  vì vậy vấn đề huấn luyện kỹ thuật tác chiến, phải chú trọng đặc biệt cho từng địa thế, từng trận đánh, phải tiên liệu tình hình trước để các cấp không ngỡ ngàng khi gặp đối phương, nhất là yếu tố tinh thần, cấp chỉ huy phải dũng cảm coi thường địch, quyết chiến là yếu tố chính quyết định chiến trường, anh em MŨ Đỏ ai ai cũng đều nhất quyết khi đã khai hỏa là chiến xa phải cháy, ai cũng ao ước được thử sức với chiến xa một lần cho biết, vì đa số anh em chưa một lần chạm trán với chiến xa địch, khi thấy tinh thần của anh em Mũ Đỏ như vậy, anh em Thiết Giáp cũng bừng bừng khí thế không sợ chiến xa T54 trên chân, hơn nữa các chiến xa của ta trong thế phòng thủ nên đều được ngụy trang và có ụ đất bao bọc kỹ càng .

Lúc 4:30 giờ sáng một đại đội khác của TĐ3ND lại báo cáo: Nghe thấy tiếng chiến xa địch sát bờ sông, xin tác xạ pháo binh, không bỏ lỡ một cơ hội nào cho dù không chắc ăn, tức thì ba trăm nơm sắt thép lại chụp xuống đầu địch, lần này địch trả đũa dữ dội, các pháo đội và tuyến đầu bị pháo dồn dập thêm nhiều vị trí pháo địch từ nhiều hướng mới, như vậy là chạm nọc rồi  (chúng tôi tự nghĩ như vậy), cho nên ngay lập tức chúng tôi cho chụp thêm hàng trăm cái nơm sắt xuống, quả nhiên một chiến xa địch bốc cháy ngay bên bờ bắc sông Mỹ Chánh, chúng tôi mừng vô hạn, chúng tôi tin chắc những điều sơ đoán dù non nớt của mình đã trúng, lúc này chúng tôi tin tưởng rằng (đạn nổ với đầu nổ CVT tiêu diệt được chiến xa địch, nhưng vẫn chưa có kết luận vững chắc, vì câu hỏi tại sao chiến xa địch bốc cháy? Câu hỏi này làm chúng tôi nhức nhối cả hơn một năm nay) Tiền sát viên pháo binh đi với đại đội TĐ3ND lại báo cáo thấy nhiều tiếng chiến xa, chúng tôi ngại gì mà không bắn thêm, vì trời còn tối TSV/PB chỉ điều chỉnh đạn theo ước lượng khi nghe đạn nổ cũng như khi nghe tiếng chiến xa, cho nên không có kết quả trông thấy nữa, cánh quân của TĐ11ND vô cùng nao nức khi nghe tin chiến xa địch bốc cháy, vì họ không có dịp thi tài, nếu chiến thắng do TĐ3ND thì TĐ11ND cũng mừng, nhưng không vui bằng chính TĐ11ND rửa hận, nên cánh quân TĐ11ND đang háo hức trông chờ sự xuất hiện của chiến xa địch, lúc này là lúc mà sự quyết thắng sẽ thực hiện dễ dàng, vì lòng quân đang nung nấu chí phục thù, cho cánh chim đầu đàn không may gẫy cánh.

Mệt quá! mặc dầu chúng tôi uống Cà Phê Phin đến no bụng, điếu thuốc lá lúc nào cũng trên tay, vậy mà ngủ thiếp đi lúc nào không hay, tôi thấy mình đang du dương nghe Thái Thanh ca Tình Hoài Hương, tiếng vỗ tay vang dội, Jomarcel đang đôi điều cảm ơn; tôi đang bắt tay Nhật Trường, rồi Như Thủy cố kéo dài hơi

Thương ai về ngõ tối

Đường không có ánh trăng

Đang say sưa trong giấc mộng đẹp; Phú trực đài trung ương tác xạ lay nhẹ tôi dậy, anh cho biết Thanh Hà 101 báo cáo quan sát thấy chiến xa xuất hiện, tôi bốc máy liên lạc trực tiếp với Sĩ Quan Tiền Sát đi với Đại Đội 111ND, Thiếu Úy Thức  chỉ danh của anh là Thanh Hà 101, giọng Huế thật nhẹ nhàng, bình thản Thức cho biết Trung Úy Đinh viết Trinh Đại Đội Trưởng đại đội111 dùng kính hồng ngoại tuyến thấy rõ ánh đèn của nhiều chiến xa, các chiến xa này đã sang sông và chuẩn bị tấn công vào tuyến của Đại Đội 111 Nhảy Dù, ngay tại tác xạ tiên liệu C308 đã điều chỉnh cả ba pháo đội, mắt thường chưa thấy vì trời còn tối. Sau khi nắm vững tình hình Thiếu Tá Tấn lập tức cho lệnh tác xạ TOT ngay trên điểm tiên liệu của ĐĐ111ND mà Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực chấp thuận những ngày trước và đã được Sĩ Quan Tiền Sát Viên Thanh Hà101 điều chỉnh bằng ba pháo đội của TĐ1PBND, đây là tác xạ gần quân bạn cho nên tác xạ này chỉ thi hành bằng ba pháo đội đã điều chỉnh rồi mà thôi, lệnh của Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực (TTPHHL) do Thiếu Tá Tấn Truyền đi.

Hồng Hà, Hắc Hà, Thanh Hà đây Bạch Hà (Bạch Hà chỉ danh TĐ1PBND)

Bạch Hà đây Hồng Hà (Hồng Hà chỉ danh PĐA1ND, vì dấu chỉ độ giạt mầu đỏ)

Bạch Hà đây Hắc Hà (Hắc Hà chỉ danh PĐB1ND, vì dấu chỉ độ giạt mầu đen)

Bạch Hà đây Thanh Hà (Thanh Hà Chỉ danh PĐC1ND, vì dấu chỉ độ giạt mầu xanh, bởi vậy mỗi khi nghe chỉ danh của TSV, biết ngay TSV đó thuộc Pháo Đội nào)

Xin tác xạ Mục Tiêu C308, tôi lập lại mục tiêu C308, 20 tràng, đầu nổ CVT, TOT theo lệnh tôi còn 8 phút nữa. (TOT= Time on target, có nghĩa là các pháo đội phải tính sao, khi TTPHHL đếm còn Zero tất cả các pháo đội thi hành tác xạ này phải có lọat đạn đầu tiên nổ trên mục tiêu cùng một lúc, đây là cách bắn làm cho địch quân phải kinh hoàng, quân đội của cả khối tự do đều đã làm và hiệu quả vô cùng.

Hồng Hà Nhận Rõ

Hắc Hà Nhận Rõ

Thanh Hà Nhận Rõ

Sau đó hệ thống tác xạ hoàn toàn im lặng,

Đây Bạch Hà TOT còn ba phút, còn hai phút, còn một phút, còn 57 giây, 55,  50..................1, zero.

Khi nghe được Zero tức là cùng một lúc ba trăm sáu mươi chiếc nơm sắt thay nhau chụp xuống, con cháu của Bác và Đảng lớp chầu diên vương, lớp chạy tán loạn không còn ai chỉ huy ai nữa, giống như một pass B52 không tan hàng sao được, đồng thời thêm một chiến xa bốc cháy, chính tác xạ TOT này do Đại Đội Trưởng 111 Nhảy Dù, Trung Úy Đinh Viết Trinh đã tiên liệu, tác xạ này làm hai chiến xa đi lạc bầy luôn và bộ binh tùng thiết hoàn toàn tan hàng không còn phối hợp với nhau được nữa, sau đó lệnh của TTPHHL cho các TSV liên lạc trực tiếp với pháo đội đã ấn định yểm trợ trực tiếp cho mình, ba pháo đội và ba tiền sát viên phải bẻ cổ sang tần số tác xạ đã ấn định, để cho hệ thống tác xạ bớt đi rối loạn vì có tới sáu đơn xin tác xạ cùng lúc, đài trung ương tác xạ có sẵn hai hệ thống tác xạ, để điều động hỏa lực, vì nhu cầu cần hỏa lực mạnh, chẳng hạn như trước mặt ĐĐ111ND trung tâm phối hợp hỏa lực vẫn điều khiển tác xạ TOT cả 6 pháo đội vào mục tiêu này, mấy ngày nay trên phương diện hỏa lực, chúng tôi hoàn toàn tự lực, không có một nguồn hỏa lực nào từ phía Hoa Kỳ cung cấp; dù không quan sát được rõ ràng, nhưng chắc chắn địch phải vào các tác xạ tiên liệu của ta, các lơm sắt không ngần ngại chụp xuống ngay, chính nhờ vậy mà trên một tuyến dài khoảng hai cây số đội hình Thiết Giáp- Bộ Binh của chúng bị tan hoang, bộ binh hoàn toàn bị tan hàng, tuy không bị tiêu diệt, nhưng đội hình chiến đấu không còn nữa, thiết giáp không có bộ binh tùng thiết , bộ đội trên thiết giáp địch lại không giám mở nắp thiết giáp, vì các mảnh đạn do đầu nổ CVT điều khiển chụp xuống như mưa rào, bất cứ một sinh vật nào trong vùng ảnh hưởng của các tác xạ của chúng ta, đều phải trúng mảnh đạn, không khác gì như địch quân đi dưới cơn mưa rào vậy, tất cả đều bị ướt, tất cả nắp trên pháo tháp đậy xuống tránh mưa, nên lúc này thiết giáp địch không khác gì người mù, đi mò trong thành phố lạ, khối sắt khổng lồ di chuyển không theo một hướng nào cả, trời tối không có người hướng dẫn khai hỏa lung tung, không biết đâu là hàng ngũ của các đồng chí và đâu là tuyến phòng thủ của các Thiên Thần Sát Cộng; có chỗ trong lúc thiết giáp của chúng đang lên dốc, chúng mất tinh thần khai hỏa bừa bãi, nên súng ngước lên trời, các loạt đạn đại liên nổ dòn dã, bay bổng lên trời trông thật đẹp mắt, những con rắn lửa vắt chéo nhau qua lại, chính nhờ vậy anh em tân binh, dù là lần đầu tiên thấy chiến xa địch, nhưng lại thấy chiến trận không có gì là đáng ngại cả, nên rất bình tĩnh dùng M72 bắn cháy chiến xa địch, tự cảm thấy trận mạc thật không khác gì trò chơi hú tim; không liên lạc được với quân tùng thiết, nên thiết giáp địch cán chết cả bạn, di chuyển lung tung không định hướng, không biết đâu là mục tiêu, cách duy nhất lấy lại tinh thần là khai hỏa bừa bãi, để rồi làm bia cho anh em Mũ Đỏ thực tập tác xạ, lần lượt từng chiếc bị tiêu diệt, từng chiếc lần lượt bốc cháy, giúp anh em Song Kiếm Trấn Ải thực tập bắn M72, sau khi đã tiêu diệt được chiếc đầu tiên, tinh thần anh em lên cao ngất trời, ai cũng muốn chính mình phải tiêu diệt được chiến xa, cho nên khi cuộc chiến tạm lắng dịu, chúng tôi chứng kiến hai tân binh, đứng trước một chiến xa của địch đã bị cháy, bằng hai vết M72, anh nào cũng nhận là mình bắn trước, và ai cũng tin tưởng M72 là khắc tinh của chiến xa địch, nếu chúng ta biết cách bắn, chúng tôi thích thú nghe hai tân binh tranh cãi, liền tham gia cho vui, tôi hỏi:

-Vị trí của hai em ở đâu,? Hai anh tân binh nhanh nhẹn chỉ vị trí tác chiến của mình, xong rồi phân trần theo ước tính của mình,

-Đích thân thấy không vết này phải là em bắn nó mới đúng hướng,

-Không phải đâu, đích thân thấy vết này nó thẳng góc với em hơn,

Các em đâu có biết khi trúng hỏa tiễn thì chiến xa vẫn còn di chuyển, nên bây giờ khó biết ai bắn trước ai bắn sau, tôi lên tiếng dàn hòa,

-Cả hai em đều bắn trúng như vậy là có chiến công bằng nhau, Đại Đội Trưởng (Hùng) xen vô cho vui vẻ cả làng,

-Cả hai tụi bay đều có công bằng nhau, tao cho hai đứa vừa thăng cấp lên binh nhất, vừa huy chương nữa chịu không, tôi thấy hai anh tân binh (bẽn lẽn) vui cười rồi chào chúng tôi đi về vị trí của mình.

  

Tôi nhìn đồng hồ 5:00 giờ sáng, tiếng Thiếu Tá Nguyển Trọng Nhi Trưởng Ban 3 Lữ Đoàn đang truyền lệnh cho ban 3 TĐ11ND, và Tiểu Đoàn Phó TĐ3ND đều đặn và chặt chẽ, tôi nghĩ thầm, chúng tôi liên lạc với nhau như vậy, chiến thắng đến là chuyện tất nhiên, nếu các đơn vị khác cũng chuẩn bị chiến trường chu đáo, phối hợp hỏa lực nghiêm minh, thì cũng phải chiến thắng như vậy thôi, điếu thuốc lá trên tay đỏ liên tục, cà phê hết ly này sang ly khác, rồi tình hình chiến sự lại sốt dẻo, nên chúng tôi rất tỉnh táo theo dõi cuộc chiến anh dũng của TĐ11ND và TĐ3ND, các tiền sát viên làm việc rất hữu hiệu, hôm nay mỗi đại đội đều được một pháo đội yểm trợ, ít có chiến trận được hỏa lực mạnh mẽ như vậy, vì thường một tiểu đoàn tác chiến mới được một pháo đội yểm trợ trực tiếp, từ lúc địch quân khởi sự tấn công TĐ11ND, chúng không pháo kích BCH/LĐ2ND và BCH/TĐ1PB nữa, chúng tôi không còn thấy mệt mỏi, tin vui đến liên tục, tôi dùng một máy truyền tin riêng, đưa tần số sang nghe hệ thống chỉ huy nội bộ của TĐ11ND, to miệng nhất vẫn là Trinh và Hùng hai anh chàng Đại Đội Trưởng này ganh nhau về tài diệt chiến xa, họ vui vẻ đánh cá nhau như cuộc vui chơi đua ngựa, nếu ai rang nhiều cua (diệt nhiều chiến xa) hơn, cứ một con cua rang muối là một két bia, nghe những mẩu đàm thoại ngắn gọn giữa các Đại Đội trưởng với nhau, ai cũng có thể đoán được trận chiến sẽ ngã ngũ ra sao, tôi nghĩ chắc địch quân không muốn sống nữa rồi, gần sáng mới tấn công, đúng là vào tử địa, tôi mỉm cười thầm chúc anh em TĐ11ND, những con chim trong đoàn Song Kiếm Trấn Ải, được toại nguyện (ngày hôm sau ta lần lượt khai thác tù binh mới biết địch cố gắng tấn công càng sớm càng tốt, nhưng chiến xa đồn trú tại khu vực gần La Vang, di chuyển lại Mỹ Chánh trước, thì lại sợ bị các toán viễn thám của ta phát giác, địch không giám di chuyển ban ngày sợ lộ, ban đêm không giám bật đèn lớn, chỉ giám bật đèn mắt mèo, và đi sát nhau sợ lạc nhau vì vậy mà đi chậm, cho nên thay vì giờ tấn công là 2:00 giờ sáng mà không làm đúng được, chúng đã coi kỹ sa bàn điểm đóng quân của ta, và đã phân chia nhiệm vụ cho từng đơn vị chiến xa và từng đơn vị bộ binh tùng thiết, như vậy kể như chúng đã thực tập tấn công trước trên sa bàn, chúng chuẩn bị chiến trường cũng chu đáo đấy , chúng có biết đâu vỏ quít dầy có móng tay nhọn, sa bàn của chúng không đúng với thực tế, những tin tức do chính các toán trinh sát của chúng nhìn thấy và vẽ lại đều sai, vì những điểm chúng quan sát được chính là những điểm ban ngày ta cố ý cho chúng quan sát, những vị trí thật được ngụy trang kín đáo và lùi vào phía trong, không một vị trí phòng thủ nào của ta sát ngay bờ sông như chúng đã vẽ lại và chúng đã cho thực tập vào vị trí nghi binh của ta, còn vấn đề vô cùng quan trọng nữa, bị xáo trộn không ít là khi chưa vượt sông đã bị các toán Viễn Thám bên kia sông, cũng như các toán tiền sát viên của ta bên đây sông, xin pháo binh bắn trúng đội hình, làm tổn thất một số đáng kể, ngay lúc đó chúng đã thấy chiến trường đêm nay, hoàn toàn bất lợi cho chúng, tinh thần có phần nao núng, vì chúng không có đơn vị trừ bị, để điền vào chỗ trống của một vài chiến xa cũng như một vài đơn vị bộ binh mới bị tiêu diệt, cho nên một vài mũi tấn công bị trống, trận chiến trở nên thiếu quân bằng, nhất là từ ngày vượt sông bến Hải, đơn vị của chúng chưa gặp một địch thủ nào, đã cản được bước tiến của chúng, cho nên tinh thần của địch đang cao trên đỉnh núi, bắt đầu đụng trận, thì tinh thần của chúng xụp xuống đáy vực, một xạ thủ đại liên  trên chiến xa địch đã thổ lộ, anh không thấy một mục tiêu nào để bắn, mà chỉ bắn cho có tiếng nổ để giữ tinh thần, còn xạ thủ đại bác không dật trên chiến xa địch còn thê thảm hơn nữa, anh nói anh bắn gần hết số đạn đại bác trên xe mục đích là cho bớt sợ hãi, vì không thấy một mục tiêu nào cả).

Lúc Thiếu Tá Tấn ban 3 TĐ1PBND đang điều khiển tác xạ TOT cho 6 pháo đội thi hành, trời thương chúng tôi sương mù chỉ dầy đặc dưới thung lũng, còn các vị trí Pháo Đội lại quang đãng không có mây, cho nên các pháo đội tác xạ vẫn dùng đầu nổ CVT được như thường, chúng tôi nghe trên máy Thiếu Úy Thức báo cáo với Pháo Đội Trưởng yểm trợ trực tiếp Pháo Đội C1 Nhảy Dù, (lúc này Pháo Đội Trưởng Pháo Đội C1 Nhảy Dù là Đại Úy Nguyễn Cẩn Ngọc, Ngọc có biệt danh là Ngọc Thầy tu, vì tánh tình anh như một nhà tu hành, hơn nữa gia đình anh có 10 anh chị em, thì 5 người là Linh Mục, 5 người là bà Soeur, chỉ có một mình anh là Thiên Thần mà thôi, sau này anh là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó, hiện anh và gia đình ở tại Houston, Texas)   Một cua rang muối như vậy là địch tổn thất thêm một chiến xa, trong khi các chiến xa của chúng chưa chạm trán trực tiếp với TĐ11ND, chúng tôi vô cùng sung sướng và nghĩ rằng khi chiến trường lắng dịu chắc chắn, chúng tôi phải tới tận nơi những chiến xa của địch, bị Pháo Binh tiêu diệt để tìm nguyên do tại sao chúng bị cháy như vậy, trời quả vẫn còn thương chúng tôi.

Khoảng 5:20 địch đồng loạt tấn công hai đại đội của TĐ3ND và ba đại đội của TĐ11ND, (còn một đại đội tác chiến của TĐ11 không ở trên tuyến đầu, ở phía sau làm thành phần trừ bị, bảo vệ bộ chỉ huy tiểu đoàn), chính toán cố vấn Hoa Kỳ xử dụng một cây Hỏa Tiễn TOW bắn cháy một chiến xa đầu tiên do đạn bắn thẳng và có quan sát được, chiến xa này cháy trước khi chúng tràn vào tuyến, Thiếu Tá Tấn phân chia mỗi pháo đội 105 ly yểm trợ một đại đội tác chiến, còn pháo đội 155 ly giao cho sĩ quan Liên Lạc của BCH/TĐ11ND.

Thiếu Úy Thức báo cáo chiến xa địch tràn vào trong nhưng không có tùng thiết, nên các chiến sĩ Mũ Đỏ của Tú Trinh (chỉ danh của Trung Úy Đinh Viết Trinh Đại Đội Trưởng Đại Đội 111Nhảy Dù, ngay sau trận diệt chiến xa anh được vinh thăng Đại Úy, anh có biệt hiệu là Trinh ba búa, anh bị thương mức độ tàn phế 90% tại trận Thường Đức, anh và gia đình hiện đang ở San Jose, tuy đời sống khó khăn nhưng anh lúc nào cũng mỉm cười) phải leo lên thiết giáp địch mở vung cho vào nồi muối M26 (lựu đạn M26) để rang cua, trong lúc đó cánh quân của TĐ3ND bị địch tấn công bằng bộ binh, chỉ có ba chiến xa cùng hòa đồng tấn công, nhưng đội hình phối hợp bị tan nát bởi các toán Tiền Sát Viên Pháo Binh của ta, điều chỉnh từng loạt đạn theo ý muốn, nhất là lúc này không phải là lúc, mà chiến xa có thể làm cho các chiến sĩ Mũ Đỏ nao núng, trái lại các anh em Mũ Đỏ còn mong cho chiến xa xuất hiện để được dịp thi thố tài năng, cho nên ngoại trừ rất ít chiến xa của địch bị Pháo Binh và hỏa tiễn Tow tiêu diệt, còn lại bao nhiêu chiến xa khác, đều bị các chiến sĩ Mũ Đỏ của năm đại đội Mũ Đỏ trên tuyến đầu tiêu diệt, chiến xa cháy ngay trên tuyến phòng thủ, hay chỉ cách tuyến phòng thủ chính không đầy 50 thước, sau khi cuộc chiến chấm dứt, lúc mà pháo binh của địch quân đang hoạt động trả thù, trời sáng trưng, chúng tôi tháp tùng theo Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng, nên có dịp được hỏi thăm những anh em khinh binh, tuy biết trước nhưng tôi vẫn đặt câu hỏi: Tại sao anh em lại để chiến xa vào gần như vậy, tất cả đều được anh em Mũ Đỏ 11 trả lời tương tự  như học sinh lớp ba, cùng học một bài thuộc lòng do thầy giáo cho bài từ ngày hôm trước:

 Đích Thân ơi nếu không để nó vào gần như vậy thì mình chết; chiến xa nó ở xa 100 thước chắc gì mình bắn trúng nó, hơn nữa bắn phía trước không hiệu quả bằng bắn ngang hông, không may bắn nó không cháy là mình bị lộ mục tiêu , như vậy là tiêu với nó ngay, không khác gì mình tự sát vậy; cho nên tụi em nhận được lệnh của trung đội trưởng, thằng nào mà bắn trật chiến xa là bị cấm phép; nên chắc ăn là để chiến xa nó vào gần mình rồi hãy bắn, để khỏi bị cúp phép. Một số ít chiến xa chưa khai hỏa nhiều, không may cho chúng vì chúng không thấy đường nên chúc đầu xuống hố, một trái M72 là một chiến xa dễ dàng, một trái M72 là phải tiêu diệt một chiến xa như hai với hai là bốn vậy, Chiến xa địch cũng có chiếc vào tới BCH/TĐ11ND  nhưng bị bốc cháy tức thời, Chiến xa địch không phối hợp được bộ binh, cho nên yếu tố quyết định chiến trường không dành cho chúng, có thể vì các loạt đạn CVT của Pháo Binh đã làm chúng tan hàng ngũ, phối hợp giữa bộ binh và thiết giáp không còn, sau đó thiết giáp lên đồi chạy nhanh hơn bộ binh nên vào trước, còn bộ binh lúa quớ vào sau làm bia cho anh em Mũ Đỏ, yếu tố chính ta chiến thắng là do lòng quyết chiến quyết thắng của các anh em trên tuyến đầu, họ sung sướng khi thấy địch xuất hiện, họ không được vui cho lắm vì tiêu diệt được quá ít chiến xa, không đáng công phải chuẩn bị quá vất vả; còn bộ binh của địch thì hoàn toàn không đáng kể, địch tiến vào gặp ta bị chết bị thương mà vẫn chưa xác định được ta ở đâu; lúc này pháo của địch cũng hoạt động mạnh, nhưng thay vì yểm trợ cho địch, pháo của địch lại trở thành yểm trợ cho ta, các loạt pháo này đều rớt xuống sông Mỹ Chánh và bên bờ phía bắc, có lẽ do TSV/PB của địch đã bị tử thương trong đêm qua, cho nên không có ai điều chỉnh các loạt đạn, vì vậy pháo của địch chỉ bắn trúng địch, hay bắn trúng chỗ không người, pháo binh bắn theo bản đồ tin tức, hay bắn theo các đài quan sát trên dãy trường sơn, vì ta không có sơ hở cho đài quan sát ở xa thấy được, nên không may cho chúng là chẳng pháo trúng đoàn quân Mũ Đỏ, mà lại trở thành yểm trợ cho đoàn quân Mũ Đỏ.

Khoảng 5:50 sáng một đoàn Cobra vào vùng xin Pháo Binh ngưng tác xạ, đó cũng là lúc chiến xa địch đã hoàn toàn bị tiêu diệt, chiếc xe chỉ huy của trung đoàn phó chiến xa địch đã bị các chiến sĩ  Mũ Đỏ của Tú Trinh làm thịt kể như là chiếc cuối cùng; tại tuyến của TĐ3ND ta diệt 3 chiến xa địch, tuyến của một đại đội của TĐ11ND tức là  ĐĐ111ND ta tiêu diệt 8 chiến xa và một xe chỉ huy, hai hỏa tiễn TOW tiêu diệt tổng số 4 chiến xa, hai chiến xa địch đi lạc ra gần quốc lộ số 1, một chiếc bị bắn cháy, còn một chiếc đầu hàng còn nguyên vẹn; nói chung, chúng dàn chiến xa ra đánh dài trên tuyến đầu, cho nên đơn vị nào cũng được hân hạnh tiêu diệt chiến xa như nhau.

Đoàn Cobra vào vùng, mọi người ngạc nhiên, chính cố vấn Mỹ cũng không biết đây là đoàn Cobra do ai phái tới, sau một hồi mới hiểu ra đây là đoàn Cobra từ  Sài Gòn gửi ra từ những ngày hôm trước, đậu sẵn tại hàng không mẫu hạm chờ lệnh từ Sài Gòn, chuyển lệnh qua cố vấn tại Quân Đoàn I, đoàn Cobra có chỉ danh là Red Team, mới được thành lập bên Thái Lan, cho nên các cố vấn cũng không rõ, đây là lần đầu xuất quân của họ, với nhiệm vụ tìm và tiêu diệt chiến xa địch,  mỗi chiếc Cobra được trang bị rất tối tân, tất cả đều trang bị hồng ngoại tuyến để nhìn ban đêm, và sensor để tìm hơi nóng, do một sĩ quan cấp tá chỉ huy, đoàn này gồm có :

1 CNC chỉ huy và liên lạc

4 cobra trang bị hỏa tiễn chống chiến xa và minigun

4 cobra trang bị hỏa tiễn thường và minigun

3 trực thăng , chuyên chở trung đội cảm tử, nếu không may có một máy bay trong đoàn, bị trúng đạn phải đáp xuống đất, trung đội cảm tử này sẽ được thả xuống ngay để tiếp cứu, hoặc để chiến đấu chờ đợi tiếp cứu đến.

Đoàn máy bay Cobra săn chiến xa bắn thêm được 1 chiến xa đang tẩu thoát bên bờ bắc sông, họ bay theo vết chiến xa suốt từ Mỹ Chánh cho tới giáp ranh Quảng Trị, chỗ nào nghi ngờ họ đều tấn công ngay, kể cả bộ binh, khi không thấy còn chiến xa cũng như bộ binh địch hoạt động nữa, họ đã quay lại xin yểm trợ sát quân bạn và tiêu diệt một số bộ binh địch đáng kể, và họ cho biết họ đếm được tổng số 22 chiến xa bị tiêu diệt, về sau mới rõ còn 4 chiến xa địch không bị cháy đã đầu hàng, nằm ngay trên tuyến của ta nên đoàn Cobra săn chiến xa tưởng lầm đó là chiến xa của ta, họ đếm chiếc nào bốc cháy là của địch, chiếc nào còn nguyên vẹn là của ta, như vậy còn 4 chiến xa địch đã đầu hàng, nằm tại tuyến phòng thủ của ta, những chiến xa này không bị hư hại.

Tuy vậy địch vẫn chạy thoát 1 xe chỉ huy, Thượng Tá Trung Đoàn Trưởng chiến xa chạy thoát về tới La Vang và bị xử bắn ngay tại La Vang. Tài liệu này lấy được tại La Vang, khi tái chiếm Quảng Trị,

Chúng tôi gặp lại anh em trong Đoàn Song Kiếm, ai ai cũng hân hoan trước chiến công của mình, nhìn anh em tù binh đang lo sợ, cúi mặt không giám nhìn thẳng, tôi thầm nghĩ họ đâu biết được, là họ đã may mắn vô cùng, khi họ được anh em Mũ Đỏ bắt làm tù binh, mạng họ chắc chắn sống, họ sẽ không bị tra khảo, họ sẽ không bị ngược đãi, như các anh em của chúng ta, không may lọt vào tay địch, họ sẽ được giữ tại các trại tù binh chiến tranh, một ngày đẹp trời nào đó họ sẽ có cơ may gặp lại gia đình, sau này tất cả tù binh chiến tranh, đều được trao trả tù binh ngay trên bờ sông Thạch Hãn, Quảng Trị năm 1973; hay những địa điểm trao trả tù binh khác, như Lộc Ninh, Bình Long năm 1974.

Sau khi biết được tại sao chiến xa của địch cháy, chúng tôi thật vui, chúng tôi biết rằng kinh nghiệm này sẽ giúp cho anh em chúng tôi bớt đổ máu, chúng tôi đang vui như những ngày còn hẹn hò, bắt gặp một Mũ Đỏ trong đoàn Song Kiếm Trấn Ải mặt mũi vẫn còn lem luốc vì thuốc súng, đang mải mê biên thư, trông dáng điệu rất thư sinh, trẻ măng nên tôi dừng lại hỏi chuyện.

-Em biên thư cho ai đó ? Tuy hỏi như vậy nhưng tôi cũng đoán được là biên thư cho ai rồi, tuổi còn nhỏ ngoài người yêu thì còn ai xứng đáng nhận được bức thư sau trận chiến, khi ngước mắt nhìn thấy tôi, anh vội vàng nghiêm chỉnh chào. Khuôn mặt còn rất non, anh lắp bắp không thành tiếng, tôi vịn vai thân mật bảo cứ ngồi xuống biên thư, nhưng anh vẫn đứng đó, mặt đỏ bừng;

-Dạ em biên thư cho .. cho

-Cho người yêu phải không?

-Dạ, anh ấp úng nhẹ nhàng đáp

-Em sẽ nói gì với người yêu của em?

-Em sẽ nói em đụng trận với chiến xa địch

-Em không sợ người yêu của em lo sợ hay sao? Vậy em có bắn cháy chiến xa nào hay không ?

-Thưa các anh lớn dành hết nên em không bắn được chiếc nào cả, còn người yêu của em, cô ấy không sợ  đâu đích thân, cô ấy rất hãnh  diện là người yêu của Mũ Đỏ, cô ấy thích đội nón đỏ, nhưng em không giám cho cô ấy đội, cô ấy biết Mũ Đỏ là ở đâu cũng đánh trận mà, tôi mời anh điếu thuốc, tôi biết lúc này ai cũng đang thiếu thuốc, anh rụt rè đón nhận, nhìn mặt anh tân binh tôi biết anh còn trẻ lắm, tôi hỏi thăm ngay

-Em đi lính được bao lâu rồi

-Thưa em đi lính được hơn một năm rồi; tôi lấy làm lạ, như vậy không còn là tân binh nữa, đi lính hơn một năm rồi, một năm biết bao nhiêu lần chạm địch.

-Vậy sao? như vậy là em có tham dự trận Hạ Lào, trận Dambe và cả Charlie nữa

-Em có tham dự trận Hạ Lào, trận Dambe em bị thương nên em không được tham dự trận Charlie,

-Bây giờ em đang mang cấp bậc gì ?

-Em lên Hạ Sĩ rồi nhưng tụi nó cứ gọi em là Hạ Sĩ Sữa nên em không thèm mang lon

-Năm nay em bao nhiêu tuổi rồi

-Năm nay em mới có 17 tuổi, lúc em vào lính, em không đủ tuổi, em phải lấy giấy khai sinh của người anh của em, để đi lính, anh của em tên Nguyễn văn Trương, em tên Nguyễn văn Trường, nên không phải sửa gì cả, vì vậy năm nay em 20 tuổi rồi đó. Tôi liếc nhìn dòng chữ lớn trên bức thư  dở dang, tay anh đang cầm; tôi tò mò hỏi,

-Tại sao em biên thư cho người yêu mà em lại viết Cây cà rem yêu quí ? Lúc này tuy anh rất bình tĩnh, nhưng Trường rụt rè không trả lời, mặt anh đỏ lên trông thật dễ thương, tò mò muốn biết sự thực vui vui này, nên tôi phải dụ,

-Này nói đi, anh sẽ tặng bao thuốc, Trường vui vẻ nhận lời

-Thật không đích thân

-Thật chứ

-Này nhé........Trường cười hóm hỉnh rồi tiếp, Đích thân muốn ăn cà rem, cũng phải tay cầm lấy cây cà rem, rồi đưa lên miệng nhẹ nhàng thưởng thức hương thơm của cà rem, và vị ngọt dịu dàng của cà rem, em nghĩ đích thân cũng phải qua thời kỳ có người yêu như em, thì cũng tay ôm, miệng hôn để thưởng thức hương thơm từ miệng người yêu, kèm theo hương vị ngọt ngào, như em bây giờ, vì vậy em coi người yêu của em cũng như cây cà rem có khác gì đâu, phải không đích thân? Tôi thầm bái phục anh lính trẻ mà có tâm hồn rất ư là hồn nhiên, rất ư là lãng mạng, không thua gì các thi sĩ.

-Thế người yêu của em năm nay bao nhiêu tuổi rồi

-Hồng năm nay 16 tuổi

-Thế gia đình Hồng có ngăn cản cuộc tình của em hay không

-Chúng em yêu nhau từ lúc em........ mặc bộ đồ hoa nón Đỏ đi phép lần đầu tiên Hồng thấy em lớn hẳn ra,  năm đó đúng ra em mới có 16 tuổi, Hồng thấy em mặc quân phục áo Hoa mũ Đỏ, Hồng thích em từ đó, gia đình Hồng chống đối dữ lắm

-Thế trước đó em có biết Hồng hay chưa

-Chúng em ở cùng xóm bàn cờ với nhau, nên chúng em trước đó cũng có quen biết nhau, tôi cảm ơn Trường đã kể cho nghe chuyện yêu đương của em, không quên đưa bao thuốc tặng Trường và rời vị trí TĐ11ND, Tôi còn muốn được nghe câu chuyện yêu đương của người lính trẻ, câu chuyện tình thật đẹp, nhưng thời gian không cho phép, rồi sau đó tôi không có dịp được gặp anh nữa, nhìn mọi người vui mừng vì đã trả được thù cho đơn vị, chúng tôi vui trong niềm vui chung đó.     

Khi về tới Lữ Đoàn chúng tôi tới ngay các Pháo Đội, để được tận mắt nhìn thấy sinh hoạt của các Pháo Thủ, sau một đêm thi hành tác xạ yểm trợ không ngừng nghỉ, đó là lúc toán tiếp tế đạn bắt đầu hoạt động, từng chiếc xe đạn êm ả chạy vào vị trí pháo đội, địch không quan sát được cho nên không bị pháo kích, nếu lúc này một người lạ, dù là một quân nhân, hay thường dân đi lạc vào đây, quí vị phải vô cùng ngạc nhiên, không biết, đây là quân nhân thuộc binh chủng nào, quân nhân đến tiếp tế đạn ai cũng biết đó là, những quân nhân trong đoàn quân Mũ Đỏ, còn những ai kia vậy, quân phục mầu đen, mặt mày lem luốc, thưa không họ mặc áo hoa trên áo có huy hiệu đàng hoàng, nhưng bây giờ không ai còn thấy huy hiệu nữa, tất cả đều một mầu đen, mầu của khói súng, sau một thời gian dài tác xạ, khói súng đủ sức nhuộm mầu áo trận trở thành mầu đen bóng, đến áo lót của họ cũng trở thành mầu đen, chỉ còn hai con mắt tinh tường, nhưng cũng không còn nhanh nhẹn, sau một đêm thức trắng đêm, và nhiều đêm canh thức trước đó, bây giờ các Pháo Thủ Mũ Đỏ đã thấm mệt, nhưng đâu có được nghỉ, vì nhiệm vụ vẫn còn đòi hỏi họ phải chu toàn, sau một hồi tác xạ theo yêu cầu của Tiền Sát Viên, bây giờ sáng rồi địch quan sát được làn khói thuốc súng do bắn quá nhiều, những loạt đạn 130 ly ào ào đổ tới, ai giúp các pháo thủ, phản pháo bây giờ, thưa không có ai cả, vì không có Không Quân yểm trợ lúc này, mà pháo của ta thì ngoài tầm, đành nương theo khói đạn nổ của địch mà bắn yểm trợ cho quân bạn, các pháo thủ Mũ Đỏ dù nguy khốn như Hạ Lào, (vì đây chính là những pháo đội đã vào Hạ Lào rồi ra khỏi Hạ Lào) dù địch quân cố gắng diệt pháo của ta, các pháo thủ Mũ Đỏ cũng vẫn anh dũng tác xạ, dưới làn mưa pháo của địch quân, đã mang lấy nghiệp vào thân, làm sao ươn hèn cho được, dù rằng có khi không may, cả khẩu đội bị thương tích cùng một lúc; tiếng đạn rít trên không trung chúng tôi biết là địch pháo kích dài, đạn bay qua đầu, tiếng đạn pháo của địch nổ chát chúa bên phải và dài đối với pháo đội, chúng tôi hiểu ngay nãy giờ địch vẫn chưa pháo trúng chúng tôi, vì các pháo đội đã nương theo địa hình mà chiếm vị trí cho các khẩu đội, nên các đài quan sát của chúng không thấy được, chúng chỉ quan sát được khói súng và bắn để điều chỉnh trúng pháo đội của ta, khi chúng xác định được vị trí pháo của ta,vì đài quan sát của chúng tuy ở cao nhưng lại xa, trời buổi sáng vẫn còn chút sương rơi nên quan sát cũng khó mà chính xác cho được, bây giờ chỉ cần một sơ hở nhỏ trên vô tuyến là chết ngay với chúng, chúng sẽ khai thác ngay, chúng tôi biết như vậy, tôi liền lên tiếng than thở với Pháo đội là địch có đài quan sát nên nó quan sát chính xác quá, coi chừng bắn xong phải xuống hầm ngay, khai thác được sơ hở này, chúng bắn hiệu quả dồn dập ngay,  chúng khôn nhưng không ngoan chút nào cả, chúng phải biết tôi làm sao sơ hở như vậy được, chúng rất rành giọng nói của tôi, chúng đã từng gọi tên và ngay cả chức vụ của tôi ra chúng chửi trên hệ thống Tác Xạ, chúng quên rằng chúng tôi được thụ huấn từ quân trường ra, chúng tôi đâu có được hân hạnh lên lon theo đảng tịch như chúng mà ngu dại như vậy; sau khi chúng pháo dồn dập tưởng rằng chúng tôi sẽ bị thiệt hại, những loạt đạn 130 ly đến tới tấp cách vị trí pháo đội trên 300 thước sai cả về hướng và cả về tầm, tôi la thất thanh trên hệ thống, cuống cuồng hỏi thiệt hại pháo đội, các pháo đội trưởng cũng vậy đâu có phải tay mơ mà nắm pháo đội, cũng trầy vi tróc vảy mới leo lên được chức vụ này, pháo đội trưởng hiểu ý ngay báo cáo thiệt hại nửa kín nửa hở, chúng tôi tin chắc là chúng sẽ mừng lắm, thất bại bộ binh chiến xa, nhưng gỡ lại được pháo binh chăng? Rồi chúng đâu có tha, chúng pháo dồn dập yếu tố có sẵn làm chúng tôi nhìn nhau cười, đó là lúc chúng tôi đang đứng bên nhau, bàn định chương trình vượt tuyến Mỹ Chánh nay mai, chúng tôi đang chờ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù ra đầy đủ là chúng tôi sẽ vượt tuyến Mỹ Chánh hỏi thăm chúng, đáp lễ cho đúng phép xã giao, hôm nay chúng đến đây hỏi thăm Song Kiếm Trấn Ải, chúng tôi sẽ hỏi thăm thật tận tình, chúng tôi không hẹp hòi gì mà không đưa cho chúng thật hậu hỹ quà cáp, hãy chờ quà xã giao của Mũ Đỏ. 

Song Kiếm Trấn Ải đã rửa được hận Charlie, bằng một trung đoàn chiến xa và một trung đoàn bộ binh địch, TĐ11ND rửa hận dễ dàng như vậy là do tất cả quân nhân trong tiểu đoàn, một lòng một dạ như nhau, chuẩn bị chiến trường, bắt địch phải tiến quân theo ý ta, bắt địch phải đón nhận những trận đòn theo ý của ta, nói cho minh bạch hơn là do tài trí của các cấp chỉ huy, từ tiểu đội cho đến tiểu đoàn, chúng ta chiến thắng không bằng lấy thịt đè người, không bằng lấy hỏa lực để tiêu diệt chúng, chúng ta chiến thắng bởi những bộ óc tinh khôn, sáng suốt, nên chiến thắng trong vinh quang, không bằng đau thương cho thuộc cấp.

Vì quen ăn cua rang muối nên khi đánh ra La Vang TĐ11ND lại rang thêm một số cua sắt nữa chính vì vậy tết Quý Sửu Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù hân hạnh đón nhận quà của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, một số hiện kim và bằng tưởng thưởng ghi danh TĐ11ND là đơn vị diệt chiến xa số 1  của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và cũng là để đoàn quân Mũ Đỏ chuẩn bị vượt sông Mỹ Chánh trong nay mai.,.

Xin đón đọc Bước Chân Trên Đại Lộ Không Người, (tức Đại Lộ Kinh Hoàng)