Thứ Tư, 31 tháng 3, 2010

Viết từ đồng bắp 12 – 20 năm và 35 năm

Mấy hôm nay trời xuân đã mang hơi ấm về trên xứ đồng bắp mông quạnh này. Những nụ mầm xanh mau mắn nhú lộc mơn mởn ngon như cái tuổi lên ba vừa mỏng mảnh vừa dễ thương. Buổi sáng trời vẫn rét. 

Tôi thích dùng chử “rét” cho cái lạnh nỏn nà của buổi bình minh hơn cả. Nó làm tôi nhớ đến một truyện của Duyên Anh viết về tuổi nhỏ đến trường ở miền Bắc được cắn một miếng vào ổ bánh mì ròn tan nóng hổi kẹp chả quế. Tôi từng thử ăn như thế khi còn ở Saigon. Đến tiệm bánh mì Hà Nội trên đường Nguyễn Thiện Thuật mua một ổ bánh mì nhỏ loại con cóc và hỏi cô hàng kẹp vào bánh một lượt chả quế. Chả phải thái dày chừng 2cm và bánh mì phải bỏ hết ruột bánh. Rắc tí tẹo muối tiêu. Thế đã đủ. Ngồi ngay trên xe đạp và nhẩn nha ăn kẻo nguội. 

Ngồi nhìn ra bên ngoài rừng cây dogwood đã trổ hoa. Loại cây này ra hoa giống hoa đào miền Bắc. Hoa màu hồng phấn nhạt hay trắng tinh khôi. Nhửng cánh hoa rụng theo gió trang trí cho thảm cỏ đã trở màu xanh mướt những chấm trắng hồng ngộ nghĩnh. Xuân đã về mà nàng chúa Đông kiêu kỳ kia còn luyến tiếc chưa chịu dời gót ngọc. Nên chi trong hơi gió vẫn còn chút hương băng giá của mùa Đông. 

Tờ lịch đã điểm ngày cuối tháng Ba. Thế là đã hơn hai mươi năm làm thân ly khách. Nhớ câu thơ Tống biệt hành. Cuộc chia lìa nào mà không đành đoạn. Từ ô cửa nhỏ trên thân tàu, ta lần đầu thấy Saigon yêu thương kia với nhà cửa lô xô phố phường chật hẹp với những mái tôn sét đỏ những cột điện gầy gò. Saigon yêu dấu nơi tuổi trẻ vang động trong tiếng súng và một thời còng lưng vất vả mờ dần sau màn mây xám. Ngày đến đất trích vui buồn lộn lẫn. Vui như một lần đã chết đi mà còn sống lại và buồn đắng cay như thêm một lần đứng trên bến tử sinh. 

Thế cũng đã ba mươi lăm năm từ ngày miền Nam tự do không còn nửa. Không muốn nói nhiều. Chỉ thở dài thôi. 

Những tưởng hòa bình là hạnh phúc. Một ông bà con hăm hở say mê nói về những người “anh em” phía bên kia sẽ đem đến tự do no ấm. Ông nhíu mày gằn giọng “đừng nghe tụi Mỹ tuyên truyền tâm lý chiến nghen – làm gì có trả thù - làm gì có - từ nay, anh em với nhau hết thôi - bỏ hết chuyện xưa làm lại từ đầu nghen”.

Một ngày sau ngày 30/4, bác Hùng bị bộ đội “anh em” phía bên kia tới đập cửa bắt lên còmmăngca đem đi mất tích. Ba mươi lăm năm sau đó - mỗi năm – công an đều nhớ mời cả nhà bác Hùng lên để hỏi một câu cộc lốc không “Nguyễn Hùng đi đâu?” không cần gọi là ông Hùng hay anh Hùng gì cả. Cùng một câu hỏi để nghe cùng một câu trả lời. “Cách mạng còng tay dẫn đi ngày đó. Biệt tăm cho tới giờ. Nếu không tin xin quý anh cứ hỏi chòm xóm thì biết. Nhờ quý anh hỏi mấy ông quân quản chỉ cho tôi chôn ổng ở đâu đặng lập bàn thờ!” Đầu năm nay, bác gái gọi qua nói “ông khu vực” (công an khu vực) đi ngang nói “bà già nhớ làm ĐƠN XIN BÁO TỬ nhé. Nhà lước cho phép dzồi.” Thế là xong. Bác gái tôi ràn rụa nước mắt kêu anh Tư tôi lập bàn thờ. Biết chớ. Biết tụi nó thủ tiêu rồi. Nhưng hận quá sao không khóc. Khóc cho chồng đêm nào không khóc. Khóc ba mươi lăm năm nay – hàng đêm một rồi.

Một tháng sau ngày 30/4, tía tôi chú tôi anh tôi ông già mấy đứa bạn tôi cô tôi thím tôi – “ngụy quân- ngụy quyền” đi “cải tạo mút mùa Lệ Thủy”. 

Mười mấy năm sau ngày 30/4, lác đác vài người trở về thân còm cỏi rục rã.  Số kia thân vùi rừng hoang núi lạnh. 

Hai mươi năm sau ngày 30/4, người sống sót dắt díu nhau lên đường ra đi làm lại từ đầu. Cái ông bà con năm xưa nay đã mất trí vì Alzeimer. Tiếc thật. Làm sao nhắc lại với hắn bây giờ?

Ba mươi lăm năm sau ngày 30/4, một thằng già giáo sư mẹ rượt ở San José tên nguyễn hữu liêm khoe mình xúc động khi nghe bài tiến quân ca trong đại hội vịt cừu yêu quái ở haloi đỏ. Tôi chỉ lắc đầu. Không lẻ chửi đụ mẹ nó thì hóa ra mình củng dơ như nó sao. Thôi thà đi vô nhà cầu đái một phát coi như xổ hết cái tục theo dòng nước đái cho nhẹ. Khi nào có dịp, tôi sẽ dộng trực diện vô cái đầu đặc sệt của nó bằng một cái gì đó hay câu gì đó cho nó tỉnh ra chăng? May be/may be not.

Tôi lửng thửng bách bộ. Rồi lặng lẽ nằm xuống trên thảm cỏ dày. Trời cao xanh kia. Tôi nghĩ ngợi lan man quá rồi... 

Bỉ ngạn còn xa quá - thuyền không lái trôi về đâu? Về đâu?

 

 

Thứ Ba, 30 tháng 3, 2010

Bác học Trương Vĩnh Ký

Tiểu sử:

Trương Vĩnh Ký sinh ngày mồng 6 tháng 12 năm 1837 mất ngày mồng 1 tháng 9 năm 1898. Khi mới sinh có tên là Trương Chánh Ký, tự Sĩ Tải, theo đạo Công giáo nên có tên thánh: Jean - Baptiste Pétrus, nên còn gọi tắt là Pétrus Ký.

 Sinh quán tại ấp Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoàng An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre). Ông là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu. Năm ông 3 tuổi, thân phụ ông được triều đình cử đi sứ sang Cao Miên rồi mất ở bên ấy.

Nhờ mẹ tần tảo nuối nấng, lên 5 tuổi Trương Vĩnh Ký được đi học chữ Hán, do thầy đồ dạy tại Cái Mơn. Đến năm lên 9 tuổi, ông được linh mục Tám đem về nuôi, vì nhớ ơn lúc nhà Nguyễn cấm đạo Công giáo gắt gao; ông Thi, tức cha của Pétrus Ký, đã hết lòng che giấu ông.

Ông Tám mất, có hai nhà truyền giáo người Pháp, thường gọi là Cố Hòa, Cố Long, biết Pétrus Ký vừa có trí thông minh vừa chăm học, nên đem về trường dòng ở Cái Nhum dạy chữ Latinh. Năm 1848, Cố Long đưa Pétrus Ký sang học tại Chủng viện Pinhalu ở Phnom Penh, Cao Miên. 

Năm 1851, trường này chọn 3 học sinh xuất sắc, trong số đó có Pétrus Ký, để cấp học bổng đi du học tại Chủng viện Giáo Hoàng ở Penang thuộc (Malaysia) nơi đào tạo các tu sĩ cho vùng Viễn Đông... 

Năm 21 tuổi (1858), Trương Vĩnh Ký đang học đến năm thứ 6, và chỉ còn một năm nữa là tốt nghiệp để chịu chức linh mục, thì vào lúc giữa năm, ông phải vội vàng về nước vì được tin người mẹ hiền qua đời. 

Pétrus Ký trở về quê hương Cái Mơn giữa lúc Pháp đem quân vào chiếm Việt Nam, bắt đầu từ Đà Nẵng (ngày 1 tháng 9 năm 1858), rồi Sài Gòn (ngày 17 tháng 2 năm 1859), đến Gia Định, tiếp theo là việc mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Vì thế, việc cấm đạo công giáo cũng diễn ra gay gắt hơn. Lúc ấy, Pétrus Ký phân vân rồi quyết định không trở lại chủng viện nữa. 

Để tránh bị bắt bớ, Trương Vĩnh Ký chạy lên Sài Gòn vào tá túc nhà vị giám mục người Pháp Lefèbre, và được ông này giới thiệu làm thông ngôn cho Jauréguiberry vào ngày 20 tháng 12 năm 1860. 

Năm 1861 Pétrus Ký thành hôn với bà Vương Thị Thọ (con gái ông Vương Ngươn, hương chủ làng Nhơn Giang (Chợ Quán) do linh mục Đoan họ đạo Nhơn Giang mối mai và dời về cư ngụ ở Chợ Quán, Sài Gòn. 

Ngày 8 tháng 5 năm 1862, Pháp thành lập trường Thông ngôn (Collège des Interprètes), ông được nhận vào dạy.

 

Năm 1863, triều đình Huế cử một phái đoàn do Phan Thanh Giản cầm đầu sang Pháp xin chuộc ba tỉnh miền Đông, Phan Thanh Giản xin Trương Vĩnh Ký đi theo làm thông ngôn.

Sang Pháp, Pétrus Ký cùng phái đoàn nhà Nguyễn được triều kiến Hoàng đế Napoléon III, gặp nhiều nhân vật tên tuổi thuộc nhiều lãnh vực khác nhau. Ngoài ra, ông còn được sang thăm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý và được yết kiến Giáo hoàng tại Rôma. 

Về nước, năm 1865, Trương Vĩnh Ký viết cho tờ Gia Định báo (tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên) do ông Ernest Potteaux làm quản nhiệm. 

Năm 1866, ông thay thế linh mục Croc làm hiệu trưởng Trường Thông ngôn. Ngày 15 tháng 9 năm 1869, ông được thủy sư đô đốc Pháp là Ohier bổ nhiệm làm chủ bút tờ Gia Định báo và tờ An Nam chính trị và xã hội. 

Ngày 1 tháng 1 năm 1871, Trường Sư phạm (École normale) được thành lập, Pétrus Ký được cử làm hiệu trưởng.

 

Ngày 1 tháng 4 năm 1871, Pétrus Ký được Pháp phong hạng nhất huyện (hàm), được cử làm thư ký Hội đồng châu thành Chợ Lớn. 

Năm 1873, Pétrus Ký được giao nhiệm vụ điều hành trường Tham biện Hậu Bổ (Collège des administrateurs stagiaires), dạy Việt và Hán văn và cũng bắt đầu viết sách. 

Năm 1876, thống đốc Nam Kỳ Duperré cử ông ra Bắc Kỳ tìm hiểu tình hình miền Bắc. Năm 1877, ông là hội viên duy nhất và đầu tiên người Nam, được cử làm ủy viên hội đồng cai trị Sài Gòn. 

Năm 1883, ông được Hàn Lâm Viện Pháp phong hàm Viện sĩ (Officier d'Académie). 

Năm 1886, Paul Bert - nghị sĩ, hội viên Hàn lâm, bác học gia sinh vật học - được cử sang Đông Dương làm khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vốn là bạn từ trước, nên Paul Bert mời Trương Vĩnh Ký ra Huế giúp việc. 

Đến Huế, Pétrus Ký được vua Đồng Khánh cho lãnh chức trong Cơ mật viện Tham tá, sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ. 

Ngày 11 tháng 11 năm đó, Paul Bert bất ngờ bị bệnh chết, Trương Vĩnh Ký bị nhóm thực dân không cùng cánh bỏ rơi, bạc đãi; và bản thân Pétrus Ký sau đó cũng bị triều đình Huế nghi kỵ và trù dập nên ông lấy cớ đau phổi xin từ chức về lại Sài Gòn dạy học tại trường Hậu Bổ, trường Thông ngôn và viết sách...

 Ông là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn và là nhà bác học Việt Nam, thông thạo 26 ngôn ngữ, được ghi trong Bách khoa Tự điển Larousse và là một trong 18 văn hào thế giới của thế kỷ 19.  Ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật. 

Mặc dù đã trở về đời sống của một viên chức, nhưng Trương Vĩnh Ký vẫn bị người khác phe tìm cách hạ bậc lương và làm khó dễ việc vào ngạch giáo sư sinh ngữ Đông Phương của ông. Rồi năm 1888, trường Thông ngôn đóng cửa, Pétrus Ký gần như thất nghiệp. 

Năm 1887, sau khi đi công tác ở Bangkok để giải quyết vấn đề giữa Thái Lan và Đông Dương, ông nghỉ hưu. Năm 1888, ông xuất bản tạp chí tư nhân Thông Loại Khóa Trình (Miscellanées) được 18 số (1888 - 1889). Sống trong hoàn cảnh buồn bã, túng quẩn, bệnh hoạn luôn, Pétrus Ký qua đời vào ngày 1 tháng 9 năm 1898. 

Mộ phần và nhà ở khi xưa của ông (nay là nơi thờ phụng ông), hiện nằm nơi góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng, Saigon. Khuôn viên tu viện & trường Thánh Linh. 

Trương Vĩnh Ký thiết tha với nền văn học Quốc ngữ và được coi là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam. Ông sáng lập, là tổng biên tập những tờ báo quốc ngữ đầu tiên (Gia Định báo), cũng là cây bút chủ chốt của rất nhiều báo khác. 

Tên ông từng được đặt tên cho trường Trung học Pétrus Ký tại Thủ đô Saigon, VNCH.

Trước tác: 

Ông có rất nhiều tác phẩm (118 tác phẩm hoặc 121 tác phẩm), lược kê một số như:

  • ·         Truyện đời xưa
  • ·         Abrégé de grammaire annamite (Tóm lược ngữ pháp An Nam)
  • ·         Kim Vân Kiều (bản phiên âm ra chữ quốc ngữ đầu tiên)
  • ·         Petit cours de géographie de la Basse-Cochinchine
  • ·         Cours de langue annamite (Bài giảng ngôn ngữ An Nam)
  • ·         Voyage au Tonkin en 1876 (Đông Kinh du ký)
  • ·         Guide de la conversation annamite (Hướng dẫn đàm thoại An Nam)
  • ·         Phép lịch sự An Nam (Les convenances et les civilités annamites)
  • ·         Lục súc tranh công
  • ·         Cours de la langue mandarine ou des caractères chinois (Bài giảng tiếng quan thoại hay chữ Trung Quốc)
  • ·         Cours d'histoire annamite (Bài giảng lịch sử An Nam)
  • ·         Dư đồ thuyết lược (Précis de géographie)
  • ·         Đại Nam tam thập nhất tỉnh thành đồ
  • ·         Cours de littérature annamite, 1891 (Bài giảng văn chương An nam)
  • ·         Cours de géographie générale de l'Indochine (Bài giảng địa lý tổng quát Đông Dương)
  • ·         Đại Nam tam thập nhứt tỉnh địa đồ
  • ·         Grand Dictionnaire Annamite-Français (Đại tự điển An Nam-Pháp) v.v...

Các nhà văn, nhà nghiên cứu Việt Nam nhận xét:

Vũ Ngọc Phan:

Trong số những sách dịch thuật, khảo cứu và sáng tác của ông, người ta thấy chỉ những sách khảo cứu của ông là có giá trị hơn cả...Người ta thấy ông rõ là một nhà bác học có óc tổ chức và có phương pháp...

Vương Hồng Sển:

Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của là ba ông minh triết bảo thân, gần bùn mà chẳng nhuốm mùi bùn, không ham "đục nước béo cò" như ai, chỉ say đạo lý và học hỏi, sống đất Tào mà long giữ Hán, thác không tiếng nhơ, thấy đó mà mừng thầm cho nước nhà những cơn ba đào sóng gió còn hiếm người xứng danh học trò cửa Khổng.

Sơn Nam:

Ông Trương Vĩnh Ký từ khi đỗ đạt cho đến khi mất vẫn tỏ ra thân Pháp. Tuy nhiên, người ở miền Nam không bao giờ khinh rẻ ông. Ông không gia nhập Pháp tịch; trước khi mất, ông biết thân phận của người học giả sống trong thời kỳ khó khăn...

Khi phong trào Duy Tân hoạt động công khai rầm rộ, ông Trần Chánh Chiếu cổ động lạc quyên đúc tượng kỷ niệm ông Trương Vĩnh Ký với bài trong báo Lục Tỉnh Tân Văn nhan đề “ông Đốc Ký”.

Ông này khi sanh tiền tuy là nhà nước tin cậy mặc dầu chớ chẳng hề ỷ thế mà hại quê hương, chỉ vẻ cho các quan Lang sa biết phong tục lễ nghĩa của con nhà An Nam, cho khỏi chỗ mích lòng nhau, làm cho mẹ gà phải thương con vịt. Đêm ngày lo đặt sách này dịch sách kia cho kẻ hậu sinh dễ học. Thiệt là quan thầy của cả và Nam Kỳ...

Ngoài những tác phẩm biên khảo mang tính cách bác học, ông Trương vĩnh Ký còn chú ý đến độc giả bình dân, lời văn theo lời ăn tiếng nói thông dụng lúc bây giờ. Chuyện đời xưa của ông cùng là Chuyện giải buồn của Huỳnh Tịnh Của hãy còn được nhắc nhở.

Thanh Lãng:

Trương Vĩnh Ký không đạo mạo, không đài các, không cao kỳ; ông trai trẻ hơn, ông mới hơn… Và nhờ ông, câu văn Việt được giải phóng khỏi những xiềng xích chữ Hán. Chủ trương của ông chính là “cách nói tiếng An Nam ròng” và viết “trơn tuột như lời nói”. Nếu đem phân tích theo ngữ pháp thì thấy lôi thôi, nhưng so với văn xuôi khác ra đời sau ông 20, 30 năm, văn ông vẫn còn hay hơn, mạch lạc khúc chiết hơn.

Nguyễn Huệ Chi:

Những biên soạn của Trương Vĩnh Ký đã có những đóng góp quan trọng cho một số ngành khoa học đương thời, nhất là khoa ngôn ngữ học và khoa học lịch sử… Các sáng tác của Trương cũng nói lên ít nhiều cá tính một con người cần mẫn trong công việc, có cái nhìn tinh tế và óc tò mò trước sự vật, nhiều lúc có khả năng hài hước hóa mọi chuyện ở đời...

Lê Thanh:

Ông là người, từ nhỏ được giáo dục theo phương pháp Âu Tây, khi trưởng thành theo giúp việc người Pháp, thế mà bằng hữu viết thư giục ông, ông không nghe, vẫn khăng khăng từ chối để suốt đời được giữ bộ quần áo Việt Nam và suốt đời là một người Việt Nam thuần túy.

Nguyễn Văn Tố tóm tắt sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký gọn trong 3 tiếng "Bác học, Tâm thuật, Khiêm tốn"

Huỳnh Minh: nếu cụ Võ Trường Toản là "Hậu tổ" của Nho học ở đất Gia Định thì cụ Trương Vĩnh Ký là bậc tiền hiền của chữ quốc ngữ trong toàn cõi đất Việt.



Thứ Hai, 29 tháng 3, 2010

Học giả Trần Trọng Kim

Tiểu sử - vắn tắt:

Trần Trọng Kim, nhà giáo dục, nhà biên khảo văn học và sử học Việt Nam, bút hiệu Lệ thần, sinh năm 1883 (Quý Mùi) tại làng Kiều Linh, xã Đan Phố, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, ông học chữ Hán từ nhỏ. Năm 1897, ông họcTrường Pháp-Việt Nam Định, học chữ Pháp. Năm 1900, ông thi đỗ vào Trường thông ngôn và đến 1903 thì tốt nghiệp. Năm 1904, ông làm Thông sự ở Ninh Bình. Năm 1905, ông qua Pháp học trường Thương mại ở Lyon, sau được học bổng vào trường Thuộc địa Pháp. Năm 1909, ông vào học trường Sư phạm Melun và tốt nghiệp ngày 31 tháng 7 năm1911 rồi về nước. Ông lần lượt dạy Trường trung học Bảo hộ (Trường Bưởi), Trường Hậu bổ và Trường nam Sư phạm.

Ông giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như: Thanh tra Tiểu học (1921), Trưởng ban Soạn thảo Sách Giáo khoa Tiểu học (1924), dạy Trường Sư phạm thực hành 1931, giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội (1939). Trần Trọng Kim còn là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí tiến đức và Nghị viên Hội đồng Dân biểu Bắc Kỳ. Một năm sau khi ông về hưu (1943), Nhật Bản kéo vào Đông Dương và bí mật đưa ông cùng Dương Bá Trạc ra nước ngoài. 1945, ông được đưa về nước. Từ thập niên 1910 đến thập niên 1940, ông cũng viết nhiều sách về sư phạm và lịch sử.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm thuộc địa Đông Dương. Để tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, triều đình Huế tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam. Trần Trọng Kim được giao thành lập nội các vào ngày 17 tháng 4 năm 1945. Đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập và Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu tiên của Việt Nam.

Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam; đặt quốc thiều là bài "Đăng đàn cung"; quốc kỳ có "nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ thẫm". (hh9 note: quẻ Ly chủ phương Nam - tượng cho văn minh khai sáng - lửa, nền cờ vàng tượng Thổ - đất – làm nền tảng văn minh Việt tộc)

Chính phủ Trần Trọng Kim thực chất vẫn nằm dưới sự bảo hộ của quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương, vì vậy có nhiều người cho rằng đây chỉ là một chính phủ bù nhìn thân Nhật và không có được sự ủng hộ của dân chúng. Khi quân Nhật đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim cũng chỉ tồn tại được đến ngày 23 tháng 8 năm 1945 thì sụp đổ. Tuy nhiên, trong thời gian ngắn ngủi, chính phủ này cũng đã làm được một việc quan trọng là thống nhất về mặt danh nghĩa đất Nam Kỳ vào đất nước Việt Nam; và thay chương trình học bằng tiếng Pháp sang chương trình học bằng tiếng Việt, do học giả Hoàng Xuân Hãn biên soạn. Bộ trưởng Bộ thanh niên Phan Anh đã thành lập đoàn Thanh niên Tiền tuyến, Thanh niên Xã hội. Trường Thanh niên tiền tuyến đã đào tạo ra nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau này.

Sau khi Việt Minh giành được chính quyền và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Trần Trọng Kim lưu vong ra nước ngoài. Sau nhiều năm tháng long đong ở Quảng Châu và Hồng Kông, ngày 6 tháng 2 năm 1947, ông trở về Sài Gòn và sống tại nhà luật sư Trịnh Đình Thảo. Năm 1948, ông qua Phnom Penh và sống với người con gái. Sau đó, ông lại trở về Việt Nam sống thầm lặng và mất tại Đà Lạt vào ngày 2 tháng 12 năm 1953, thọ 71 tuổi.

Trần Trọng Kim được đánh giá là một học giả uyên thâm cả tân và cựu học, là người tận tụy cho ngành giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, ông là người có tư tưởng bảo thủ và dân tộc - bảo hoàng. Tác phẩm Việt Nam sử lược được đánh giá là một trong những quyển sử Việt Nam có phong cách ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu, được tái bản nhiều lần.

Trước tác:

Trước năm 1945, Trần Trọng Kim có nhiều tác phẩm nổi tiếng thời bấy giờ về các lĩnh vực sử học, nghiên cứu và sư phạm gồm:

  • Sơ Học Luân Lý (1914),
  • Vương Dương Minh (1914),
  • Luân Lý Giáo Khoa Thư (1916)
  • Sư Phạm Khoa Yếu Lược (1916),
  • Việt Nam Sử Lược (1919),
  • Truyện Thúy Kiều Chú Giải (1925)
  • Nho Giáo (1930),
  • Phật Lục (1940),
  • Quốc Văn Giáo Khoa Thư, 3 tập: lớp Đồng ấu, Dự bị, và Sơ đẳng (soạn cùng Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận; Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ vẽ)
  • Việt Nam Văn Phạm (cùng Bùi Kỷ, Nguyễn Mạnh Tường) (1941).

Sau năm 1945, ông viết hồi ký: Một Cơn Gió Bụi (1949)

Chủ Nhật, 28 tháng 3, 2010

trung ngôn nghịch nhĩ

trung ngôn nghịch nhĩ. lời nói thẳng dù với thiện ý bao giờ củng khó nghe. nhất là khi bạn phải đối diện với sự vô minh của bọn đầu gấu. nếu nói đàn khảy tai trâu thì oan cho trâu vì trâu đáng yêu hơn bộ chính trị đảng lừa lắm. vẩn phải nói và viết để khai ngộ cho nhửng ai còn đang khiếp sợ hoặc mê man lạc lối. những tên đầu gấu kia nếu nói chúng là cộng sản là sai vì cộng sản đích thực không xấu như thế. chúng chỉ mạo danh cs mạo danh yêu nước để mua bán trục lợi trên tổ quốc. khi tàu xâm lăng, chúng đã có nhà mua sẳn ở Canada, Texas và tiền chất cứng trong bank Thụy sỹ rồi. đó là plan B. còn plan A là ở lại làm tay sai cho thái thú hujintao nếu được phép. xin đừng khóc. hảy chờ lúc làm con sóng dử lật úp cái con thuyền Nghệ An đóng mác CM.

Thứ Sáu, 26 tháng 3, 2010

Chim Thúy - Phạm Thiên Thư

bao nhiêu hiện hữu
đã xuống dòng sông
và những bông hồng
của thời non trẻ
vùi trong dâu bể
hòa trong bể dâu
còn lại gì đâu

như con chim thúy
ta soi dòng sầu

thấy bao giọt lệ
hóa thân nhiệm mầu

Thứ Ba, 23 tháng 3, 2010

Duyên tình con gái Bắc - Nguyễn Tất Nhiên


Ta sẽ về thương lại nhánh sông xưa
Thương lại bóng hình người năm năm trước... 
Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc
Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền
Nhớ dịu dàng nhưng thâm ý khoe khoang
Nhớ duyên dáng, ngây thơ mà xảo quyệt !

Ta sẽ nhớ dặn dò lòng nên tha thiết
Nên vội vàng tin tưởng chuyện vu vơ
Nên yêu đương bằng khuôn mặt khờ khờ
Nên hùng hộ để đợi giờ thua thiệt !

Nghe nói em vừa thi rớt Luật
Môi trâm anh tàn héo nụ-xa-vời
Mắt công nương thầm khép mộng-chân-trời
Xin tội nghiệp lần đầu em thất vọng !

(dù thật sự cũng đáng đời em lắm
rớt đi Duyên, rớt để thương người !)
Ta -- thằng ôm hận tú tài đôi
Không biết tìm ai mà kể lể

Chim lớn thôi đành cam rớt lê.
Ngày ta buồn thần thánh cũng thôi linh !
Nếu vì em mà ta phải điên tình
Cơn giận dữ đã tận cùng mê muội

Thì đừng sợ, Duyên ơi, thiên tài yếu đuối
Tay tre khô mối mọt ăn luồn
Dễ gãy dòn miểng vụn tả tơi xương
Khi tàn bạo siết cổ người yêu dấu !

Em chẳng bao giờ rung động cũ
Ta năm năm nghiệt ngã với tình đầu
Nên trở về như một con sâu
Lê chân mỏng qua những tàn cây rậm

Nuôi hy vọng sau ngàn mưa nắng lậm
Lá xanh em chưa dấu lở loang nào
Ðể ta còn thi sĩ nhất loài sâu
Nhìn lá nõn, tiếc, thèm...đâu dám cắn !

Nếu vì em mà thiên tài chán sống
Thì cũng vì em ta ngại bước xa đời !

(1972) 

Thứ Hai, 22 tháng 3, 2010

Chuông Mơ - Nguyễn Tất Nhiên

áo em trắng cả sân trường trắng
tan học chiều nay có ngẩn ngơ ?
chiều nay anh ở xa lăng lắc
không cách chi về đón tiểu thơ!
chiều nay anh ở đất bon chen
cái mộng tan theo cái thấp hèn
cái thực lem theo ngày sống vội
không cách chi dài phút nhớ em!
chiều nay em bước ngang giáo đường
mắt Chúa chắc buồn thăm thẳm hơn
chắc cây thánhg iá thành di tích
chuyện một người chuộc tội hoài công!
chiều nay em còn măng tóc mai
hay đã lao tâm luống bạc rồi ?
chiều nay vừa đến giờ tan học
hay vừa buông cuốc chặm mồ hôi ?
chiều nay em bước trên quê hương
chắc tóc không còn óng ả chuông
chắc chuông không mượt nâng tà tóc
chắc tóc và chuông đã ... đoạn trường!
chiều nay em trên que hương
chắc Chúa chẳng nhìn như mọi hôm
bởi vì mắt Chúa và em đã
lóng lánh vùi chôn ngấn lệ lòng!
áo trắng cả sân trường trắng
tan học trong đời anh thẩn thơ
đời anh quên, nhớ, quên... nhiều lắm!
chiều chiều xứ Mỹ cũng chuông mơ ... 

Thứ Tư, 17 tháng 3, 2010

Tâm Hương - Nguyễn Tất Nhiên


Giữ cho nhau một chút tình
Giữ cho nhau một ánh nhìn thiên thu
Giữ long lanh, giữ sa mù
Giữ phai nhạt, giữ đền bù nhạt phai
Giữ hương cho thở ngây ngây
Giữ hiu hiu gió đượm dài luyến lưu
Giữ sương mai, giữ sương chiều
Giữ sông trong giọt lệ sầu xưa, sau
Giữ cho nhau một chút nào
Giữ duyên đáp nghĩa đền câu phụ lòng
Giữ thơm không khí phiêu bồng
Giữ mây cho khói mang hồn sông theọ...

Thứ Ba, 16 tháng 3, 2010

Thục Nữ - Nguyễn Tất Nhiên

Thục Nữ

Chiều em đi hai hàng bính tóc
Gieo xuống đôi vai nhỏ thiệt thà
Còn bao nhiêu dấu hài khuê các
Sao đành gieo xuống phố đời ta ? 

Chiều em đi nón lá che nghiêng
Sao đành che mất nụ cười duyên ?
Mây vẫn chưa về gom bớt nắng
Trần ai đông lắm kẻ si tình 

Chiều em đi trong nắng trời tây
Bóng đổ lên đênh - bóng đổ gầy
Bóng đổ gầy như ta ốm yếu
Đeo đẳng hoài theo tình không may 

Chiều em đi bước ngại bước ngùbg
Như sợ làm đau ngọn cỏ nhung
Như sợ bay lên từng đoá bụi
Sao khách tài hoa nát cả lòng ? 

Chiều em vui quá, thuở vàng son
Ta bỗng lang thang khắp ngả đường
Ta đi cho hết thời oanh liệt
Cho thấu một trời đau đớn riêng! 
(1971)

Thứ Hai, 15 tháng 3, 2010

Tâm duyên - Nguyễn Tất Nhiên

mùa hè anh lên núi

thấy tóc em lành nhiên

cười theo chiều, gió tối

trời đi vào giấc yên

cho sự sống duyên hiền

từng búp hoa huệ nhỏ

cho sự sống hương êm

từng thoảng hoa huệ thở

sự sống trắng tinh im

từng nụ quan-âm nở

im lặng là xin dâng

tặng đời bông hoa nữa...

 

mùa hạ anh ra đường

thấy mới tinh tất cả

thấy nắng nôi dịu dàng

đang vuốt ve cây cỏ

thấy cây cỏ dễ thương

đang làm duyên, tóc xõa

thấy lửa trời nung ngon

chín bòn bon sự sống

thấy sự sống nhịp nhàng

theo đỏ, vàng, xanh, đỏ...

thấy phố xá từ tâm

đèn cười hoa ba đóa...

(17/01/89)

Thứ Sáu, 12 tháng 3, 2010

Tâm Nguyệt - Nguyễn Tất Nhiên

từ gót sen hài em hút dấu

sầu tôi như lá thẫn thờ bay

ví dù lá ngập đường em bước

lá cũng xin đừng bận gót ai...

 

từ mắt chia lòng sông cách núi

sầu tôi như bụi khắp không gian

ví dù bụi ố hoen màu trắng

bụi cũng xin đừng vương mắt xanh...

 

từ tóc bay xuôi dòng quá khứ

sầu tôi như bóng lặng lờ trôi

ví dù bóng đẳng đeo tròn kiếp

bóng cũng xin dòng tóc thảnh thơi...

 

từ hơi thở của không gian khác

sầu tôi như lịch nhẩn nha rơi

mỗi ngày thiên hạ hồn nhiên xé

lịch mới, như tờ-thương-nhớ-tôi!

 

từ hoa môi của bình minh khác

núi đồi vắng cả tiếng thông reo

chim thôi cười chúc mừng hoa lá

thành-phố-tôi già ho động cơ

 

từ vỡ, lành trăng lồng bóng nước

từ em là nguyệt lộng đời sông

từ tôi là một dòng tâm nguyệt

sông có trăng cười sông xóa trăng...

(06/01/1989)

Thứ Năm, 11 tháng 3, 2010

Tâm Xuân - Nguyễn Tất Nhiên

Em có trăng rằm trong đáy mắt

Hồn anh từ đó khảm muôn sao

Tình anh là một trời trong vắt

Chẳng gợn mây, không sợi vẩn nào...

 

Em có mặt trời trong ánh mắt

Tim anh ngàn phượng nở bâng khuâng

Đường quê tình tự trong anh bỗng

Trùng điệp ve ran dậy tiếng mừng...

 

Em có sân trường trong mắt nắng

Có trăng huyền thoại tế trung thu

Có sông đời chợt reo vui thác

Là có tình anh đấy - biết đâu !

Thứ Tư, 10 tháng 3, 2010

Guốc Tía - phạm thiên thư

con đường hoàng hoa
em mang hài lục

con đường bạch cúc
em mang hài hồng

con đường sầu đông
em đi guốc tía

anh ngồi thấm thía
cội sầu trổ bông

Thứ Ba, 9 tháng 3, 2010

Động Hoa Vàng - Phạm Thiên Thư

... Chốn đi về của hồn thiên cổ ...

 

Mười con nhạn trắng về tha

Như Lai thường trụ trên tà áo xuân

Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền

Ðôi gò đào nở trên miền tuyết thơm

 

Xe lên bụi quán hoa đường

Qua sương trắng dậm phố phường úa thu

Tiếng chim ướt sũng hai mùa

Hạt rơi thêm lạnh hững hờ mây qua

 

Dế buồn dỗ giấc mù sa

Âm nao lãng đãng tơ ngà sương bay

Người về sao nở trên tay

Với hài đẫm nguyệt thêm dài gót mơ

 

Con khuyên nó hót trên bờ

Em thay áo tím thờ ơ giang đầu

Tưởng xưa có kẻ trên lầu

Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa

 

Tóc dài cuối nội mây xa

Vàng con bướm nhụy lẫn tà huy bay

Dùng dằng tay lại cầm tay

Trao nhau khăn lụa nhớ ngày sầu đưa

 

Từ chim thủa núi xa xưa

Về đây rớt lại hạt mơ cuối rừng

Từ em khép nép hài xanh

Về qua dục nở hồn anh đóa sầu

 

Ừ thì mình ngại mưa mau

Cũng đưa anh đến bên cầu nước xuôi

Sông này chảy một dòng thôi

Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông

 

Ngày xưa em chửa theo chồng

Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi

Mùa thu áo biếc da trời

Sang đông em lại đổi dời áo hoa

 

Ðường về hái nụ mù sa

Ðưa theo dài một nương cà tím thôi

Thôi thì em chẳng yêu tôi

Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng

 

Sao em bước nhỏ ngập ngừng

Bên cầu sương rụng mấy từng mai mơ

Ðêm về thắp nến làm thơ

Tiếng chân còn vọng nửa tờ thư tôi

 

Ðôi uyên ương trắng bay rồi

Tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông

Nửa đêm đắp mảnh chăn hồng

Lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha

 

Con chim chết dưới cội hoa

Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao

Mai anh chết dưới cội đào

Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu

 

Tường thành cũ phiến bia xưa

Hồn dâu biển gọi trong cờ lau bay

Chiều xanh vòng ngọc trao tay

Tặng nhau khăn lụa cuối ngày ráng pha

 

Ðêm dài ươm ngát nhụy hoa

Chim kêu cửa mộ trăng tà gõ bia

Em ơi rủ tóc mây về

Nhìn trăng nỡ để lời thề gió bay

 

Ðợi nhau tàn cuộc hoa này

Ðành như cánh bướm đồi tây hững hờ

Tìm trang lệ ố hàng thơ

Chữ xưa quyên dục bây giờ chim di

 

Mây xưa cũng bỏ non về

Em xưa cũng giã câu thề đó đây

Nhớ đành biết mấy tầm tay

Lông chim biển Bắc hoa gầy bãi Ðông

 

Ðợi ai trăng rõi hoa buồn

Vắng em từ thủa theo buồm gió xuôi

Chiều chiều mở cổng mây trôi

Chênh vênh núi biếc mắt ngời sao hôm

 

Thế thôi phố bụi xe hồng

Hồ ngăn ngắt đục đôi dòng nhạn bay

Ðưa nhau đấu rượu hoa này

Mai đi dã hạc thành ngoài cuồng ngâm

 

Xuống non nhớ suối hoa rừng

Vào non nhớ kẻ lưng chừng phố mây

Về thành nhớ cánh chim bay

Xa thành thương vóc em gầy rạc hoa

 

Hạc xưa về khép cánh tà

Tiếng rơi thành hạt mưa sa tần ngần

Em về hong tóc mùa xuân

Trăng trầm hương tỏa dưới chân một vành

 

Em nằm ngó cội thu xanh

Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi

Về em vàng phố mây trời

Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân

 

Thì thôi tóc ấy phù vân

Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương

Thì thôi mù phố xe đường

Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi

 

Gầy em vóc cỏ mây dời

Tay em mai nở chân trời tuyết pha

Ngày dài ngựa soải cầm ca

Trán cao ngần nửa trăng tà ngậm sương

 

Xe lăn bánh nhỏ bụi hường

Lao xao vó rụng trên đường phố mây

Mưa giăng ráng đỏ hao gầy

Ðôi con ngựa bạch ném dài tuyết sa

 

Chim nào hát giữa thôn hoa

Tay nào hong giữa chiều tà tóc bay

Lụa nào phơi nắng sông tây

Áo xuân hạ nọ xanh hoài thu đông

 

Con chim mùa nọ chưa chồng

Cũng bay rời rã trong dòng xuân thu

Từ em giặt áo đông tơ

Nay nghe lòng suối hững hờ còn ngâm

 

Thuyền ai buông lái đêm rằm

Sông thu ngân thoảng chuông trăng rì rào

Cửa sương nhẹ mở âm vào

Lay nghiêng bầu nậm rượu đào trầm ca

 

Lên non cuốc sỏi trồng hoa

Xuôi thuyền lá trúc la đà câu sương

Vớt con cá nhỏ lòng đòng

Mải vui lại thả xuống dòng suối tơ

 

Vào non soi nguyệt tầm rùa

Ðọc trên mai nhỏ xanh tờ lạc thư

Thả rùa lại đứng ưu tư

Muốn qua hang động sống như nguyệt rùa

 

Em nghiêng nón hạ cầu mưa

Sông ngâm mây trắng nước chưa buồn về

Hoa sầu cỏ cũng sầu chia

Lơ thơ xanh tụ đầm đìa vàng pha

 

Ðất Nam có lão trồng hoa

Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông

Lại đem bầu ngọc ra trồng

Bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân

 

Người vui ngựa chợ xe thành

Ta leo cầu trúc bên ghềnh thác rơi

Theo chân chim gặp mây trời

Lại qua khói động hỏi người tu non

 

Bông hoa trắng rụng bên đường

Cánh thơm thông điệp vô thường tuyết băng

Con ong nhỏ mới ra giàng

Cũng nghiêng đôi cánh nhụy vàng rụng rơi

 

Mùa xuân bỏ vào suối chơi

Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa

Múc bình nước mát về qua

Ghé thôn mai nọ hỏi trà mạn xưa

 

Chim từ bỏ động hoa thưa

Người từ tóc biếc đôi bờ hạ đông

Lên non kiếm hạt tơ hồng

Ðập ra chợt thấy đôi dòng hạc bay

 

Người về đỉnh núi sương tây

Ta riêng nằm lại đợi ngày mướp hoa

Bến nam có phố giang hà

Nghiêng nghiêng nậm ngọc dốc tà huy say

 

Tình cờ anh gặp nàng đây

Chênh chênh gót nguyệt vóc gầy liễu dương

Qua sông có kẻ chợt buồn

Ngó hoa vàng rụng bên đường chớm thu

 

Mốt mai em nhớ bao giờ

Bãi dâu vãn mộ cho dù sắc không

Chân chim nào đậu bên cồn

Ngựa xuôi có kẻ lại buồn dấu chim

 

Ðợi người cuộc mộng thâu đêm

Sông Ngân trở lệ dài thêm dòng nhòa

Anh nằm gối cỏ chờ hoa

Áo em bạch hạc la đà thái hư

 

Em từ rửa mặt chân như

Nghiêng soi hạt nước mời hư không về

Thâu hương hiện kính bồ đề

Phấn son chìm lắng hạt mê luân hồi

 

Ta về rũ áo mây trôi

Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan

Rằng xưa có gã từ quan

Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

 

Ngựa xưa qua ải sương này

Còn nghe nhạn lạc kêu hoài bãi sông

Nước xuôi gờn gợn mây hồng

Tiếng ca lạnh thấu hoàng hôn giục đò

 

Hoa đào tưởng bóng đào xưa

Thuyền sang bến nọ dòng mờ khói vơi

Hoa dương vàng nhạt sầu người

Ta về uống nước sông khuây khỏa lòng

 

Ðưa nhau đổ chén rượu hồng

Mai sau em có theo chồng đất xa

Qua đò gõ nhịp chèo ca

Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say

 

Khăn trăng từ độ trao tay

Nửa tan cát suối nửa mài nghiên sương

Mốt mai lòng có nghe buồn

Mảnh trăng hiện hóa thiên đường cõi chơi

 

Nhện cheo leo mắc tơ trời

Dòng chim qua hỏi mộ người tà dương

Ðánh rơi hạt mận bên đường

Xuân sau mọc giữa chân thường cội hoa

 

Nụ vàng hương rộ tháng ba

Nửa đêm dậy ngó trăng tà tiêu tương

Chẳng như cội liễu bờ dương

Tóc xanh mướt giữa vô thường sắc không

 

Mai nào thơm ngát thu đông

Lược em chải rụng đôi dòng tơ xanh

Ðôi chim hồng yến trên cành

Ngẩn ngơ quên rỉa lông mình điểm trang

 

Mùa xuân mặc lá trên ngàn

Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư

Ðộng nam hoa có thiền sư

Ðổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn

 

Nến khuya lửa hắt hiu vàng

Trang kinh lác đác đôi hàng nhạn sa

Ý nào hóa hiện ngàn hoa

Chữ nào cẩn nguyệt trên tà áo ni

 

Dỗ non suối giọng thầm thì

Ðộ tam thế mộng xá gì vóc hoa

Ni cô hiện giữa ta bà

Búp tay hồng ngọc nâng tà áo trăng

 

Tiếng chim trong cõi vô cùng

Nở ra bát ngát trên rừng quế hương

Tiếng em hát giữa giáo đường

Chúa về trong những thánh chương bàng hoàng

 

Ðố ai nhớ hết hoa vàng

Ðố ai uống cạn sương tàng trăng thâu

Ðố ai tát cạn mạch sầu

Thì ta để tóc lên cầu đón ai

 

Em về sương đẫm hai vai

Dấu chân là cánh lan dài nở đêm

Từ em hé nụ cười huyền

Mùa thu đi mất trên miền cỏ hoa

 

Guốc mòn lẫn tiếng sơn ca

Sư về chống gậy trúc qua cầu này

Ngó bờ suối lạnh hoa bay

Thương sao giòng nước trôi hoài thiên thanh

 

Có con cá mại cờ xanh

Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân

Nửa dòng cá gặp phù vân

Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi

 

Dù mai lều cỏ chân trời

Khơi hương lò cũ khóc người trong thơ

Em còn ửng má đào tơ

Tóc xưa dù có bây giờ sương bay

 

Lên non ngắt đóa hoa này

Soi nghiêng đáy suối bóng ai nhạt nhòa

Nom hoài chẳng rõ là ta

Tắm xong khoác áo hát ca về làng

 

Tay đeo vòng ngọc xênh xang

Áo em bay giải tơ vàng thiết tha

Bước chân tìm chán ta bà

Ngừng đây nó hỏi : đâu là vô minh

 

Hỏi con vạc đậu bờ kinh

Cớ sao lận đận cái hình không hư

Vạc rằng : thưa bác thiên thư

Mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ

 

Nước đi từ thủa bao giờ

Dòng xuôi người đứng trên bờ ngó xuôi

Chừng đâu dưới bến hoa tươi

Buộc thuyền xưa đã có người ngó sông

 

Từ hôm em bỏ theo chồng

Áo trắng em cất áo hồng em mang

Chiều nay giở lại bàng hoàng

Mười năm áo cũ hoe vàng lệ xanh

 

Ðôi chim nho nhỏ trên cành

Giục nhau đan tổ cỏ xanh bên đường

Nửa đời mây nước du phương

Thiền sư ngắt cỏ cúng dường phật thân

 

Gò chiều ùn bụi sương lên

Hỏi ra mới biết nơi yên cành vàng

Bên mồ chồn cáo đùn hang

Chim kêu như lảnh tiếng nàng ngân nga

 

Cuối xuân ta lại tìm qua

Tiểu thư chi mộ thềm hoa dại tàn

Sớm thu ta đánh đò sang

Bên đường cỏ mộ lại vàng cúc hoa

 

Trúc thưa cổng gió ơ hờ

Em ra tựa cửa nghĩ chưa lấy chồng

Sông ơi xanh nhé một dòng

Mùa xuân cắp rổ ra đồng vớt hoa

 

Ðường dài xao xác chim ca

Người còn khoác nón theo tà dương nao

Ván cờ bày trắng bông đào

Sao lên núi thẫm trăng vào chén không

 

Ðồi thu vắt suối mây hồng

Chim xanh lác đác ngược dòng hoa tiên

Bấc sầu lửa lụn chờ em

Lệ xưa ai đã đổ nên dầu này

 

Ðón em như ngóng chim trời

Bãi xuân sớm đậu chiều dời khói thu

Em còn áo trắng ngày xưa

Trong anh muôn thủa bao giờ lệ hoen

 

Khơi trầm thơm tụng kinh hiền

Máu xuân mạch lạnh trong miền xương da

Vườn chùa có nụ hàm ca

Sương khuya : pháp bảo trăng tà : vô môn

 

Mai tươi cánh nở bên cồn

Mưa bay lấm tấm cành hương trắng ngời

Thu đông tàng ẩn kho trời

Hạt rơi rụng ngọc cánh rời rã hoa

 

Cổng làng mở cánh sao sa

Nhã lan loáng thoáng tiếng gà xóm mai

Lên chùa dâng dĩa hoa nhài

Chợt viền trăng lạnh trên hài tổ sư

 

Chuông ngân chiều lặng trầm tư

Tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng

Ðiệu về tay giấu chùm bông

Gót chân đất phật trổ hồng hằng sa

 

Bóng trăng tịch mặc hiên nhà

Thành đàn nẩy hạt tỳ bà quyện hương

Gió thu từ độ tha phương

Về trên hốc gỗ bên đường lặng im

 

Áo em vạt tím ngàn sim

Nửa nao nức gọi nửa im lặng chờ

Yêu nhau từ độ bao giờ

Gặp đây giả bộ hững hờ khói bay

 

Tình cờ như núi gặp mây

Như sương đậu cánh hoa gầy tiêu dao

Tỉnh ra thì giấc chim bao

Chuyện mười năm cũ lại nao nao lòng

 

Cành sen lá chĩu sương trong

Áo ni xám vạt trời hong buồn về

Tay nào nghiêng nón thơ che

Tay nào lần chuỗi bồ đề xanh xao

 

Ðôi mày là phượng cất cao

Ðôi môi chín ửng khoé đào rừng mơ

Tiếng nàng vỡ bạc thành thơ

Tụng dòng kinh tuệ trên tờ khói mây

 

Tóc em rừng ngát hương say

Tay em dài nụ hoa lay dáng ngà

Mắt xanh bản nguyện di đà

Bước trầm hương nhẹ lẫn tà dương chim

 

Mắt nàng ru chiếc nôi êm

Ru hồn tôi ngủ ngàn đêm tuyệt vời

Em là hoa hiện dáng người

Tôi là cánh bướm cung trời về say

 

Một đêm nằm ngủ trong mây

Nhớ đâu tiền kiếp có cây hương trời

Cây bưởi trắng ngát hương đời

Nụ là tay phật chỉ người qua sông

 

Non xanh khoác áo sương hồng

Con chim điểm tuyết ngoài đồng vụt bay

Tiếng kêu lạnh buốt lòng tay

Ngón buông lại chợt tuôn đầy lòng hoa

 

Em bên cửa chuốt tay ngà

Cội lan đông mặc nở qua mấy nhành

Ngày em ướp áo hồ xanh

Con uyên tha thiết trên cành gọi thu

 

Ni về khép cửa chùa tu

Sớm mai mở cổng quét thu vườn hồng

Thu vương ngọn chổi đôi bông

Thoảng dâng hương lạ bướm vòng cánh duyên

 

Sư lên chót đỉnh rừng thiền

Trong tim chợt thắp một viền tà dương

Ngón tay nở nụ đào hương

Cầm nghiêng tịnh độ một phương diệu vời

 

Một dòng hoa nổi trên trời

Một dòng hoa nở trong người trầm tư

Cánh nào mở cõi không hư

Phiến băng tuyết khảm một tờ kim cang

 

Thư em ướp nụ lan vàng

Lời em gió núi chiên đàn thoảng xa

Áo em phất cõi di đà

Ngón chân em nở cánh hoa đại từ

 

Chênh vênh đầu trượng thiền sư

Cửa non khép ải sương mù bóng ai

Non xanh ướm hỏi trang đài

Trăm năm còn lại dấu hài động hoa

 

Ngày xưa bên dậu vàng hoa

Chiều chiều kê chõng nằm ra ngó trời

Năm sau em bỏ đi rồi

Ta về ngồi lắng mưa rơi giậu buồn

 

Trên nền gạch nẻ rêu phong

Xưa phơi nhã điệu giờ hong đóa quì

Trẻ đào bãi cỏ xanh rì

Ðược thanh kiếm quỉ bao kỳ thu han

 

Non đem nhạn nhốt trong thành

Cho sông chưa trở yếm xanh dưới cầu

Người còn dệt lụa tằm dâu

Ðêm nghe mưa rụng thiên thâu ngoài giàn

 

Núi nghiêng suối vắt tơ đàn

Nhìn ngoài thạch động mưa vàng lưa thưa

Nghiêng bình trà nhớ hương xưa

Từ vàng hoa nọ bây giờ vàng hoa

 

Sáng nghe lan rụng mái nhà

Chừng như mưa nhẹ núi xa mùa này

Ðường về mù mịt ngàn mây

Về nam đôi cánh chim bay xạc xào

 

Mây dù chẳng chất non cao

Ðường về dù chẳng sông đào nông sâu

Ðêm đêm lòng dục nẻo sầu

Thềm trăng ngỡ tưởng hoa cau rụng thầm

 

Nhớ cha giọt lệ khôn cầm

Dưới trăng lấp lánh như trâm vân quỳnh

Nghiêng ly mình cạn bóng mình

Tay ôm vò nguyệt một bình mây bay

 

Gối tay nệm cỏ nằm say

Gõ vào đá tụng một vài biển kinh

Mai sau trời đất thái bình

Về lưng núi phượng một mình cuồng ca

 

Gây giàn thiên lý vàng hoa

Lên non cắt cỏ lợp nhà tụ mây

Xuống đầm tát cá xâu cây

Bới khoai vùi lửa nằm dài nghe chim

 

Khách xa nhớ đến nhau tìm

Lên đồi trẩy một giỏ sim làm quà

Hứng nước suối thết bình trà

Hái bầu nấu bát canh hoa cười khàn

 

Vào hang núi nhập niết bàn

Tinh anh nở đóa hoa vàng cửa khe

Mai sau thí chủ nào nghe

Tìm lên xin hỏi một bè mây xanh

 

Hoa vàng ta để chờ anh

Hiện thân ta hát trên cành tẩm mai

Trần gian chào cõi mộng này

Sông Ngân tìm một bến ngoài hóa duyên

 

 

...

Lớn lên giữa núi xanh rì

Cỏ hoa như thể tứ chi cận kề

Sao ta biền biệt chưa về

Lưng đồi sim tím bốn bề chim ca

Dù muôn dặm có bao xa

Mà trong gang tấc vẫn là thiên thu.